Chương : 19
Đường Dawlish là một con đường khá quanh co, và buổi chiều hôm đó thật thích hợp cho những kẻ lang thang… ít nhất là Anne và Lewis nghĩ như vậy khi họ thong dong đi dọc theo con đường, thỉnh thoảng đứng lại để ngắm khoảnh eo biển ngọc lam đột nhiên hiện ra thấp thoáng sau hàng cây, thu vào tầm mắt một mảng thiên nhiên mỹ lệ đến ngỡ ngàng hay một ngôi nhà nhỏ đẹp như tranh vẽ nằm giữa một thung lũng um tùm. Có lẽ việc gõ cửa từng nhà một xin quyên góp cho câu lạc bộ kịch nói thì không được dễ chịu cho lắm, nhưng Anne và Lewis thay phiên nhau giữ nhiệm vụ mở lời… cậu thuyết phục các quý bà trong khi Anne lãnh phần đối phó với các quý ông.
“Nên bắt chuyện với lũ đàn ông nếu cô mặc chiếc váy và đội cái mũ đó,” Rebecca khuyên nhủ. “Tôi có khá nhiều kinh nghiệm đi xin quyên góp hồi còn trẻ và tất cả cho thấy mặc càng đẹp và bề ngoài càng tươm tất thì cô sẽ xin được nhiều tiền hơn… hoặc nhiều lời hứa đóng góp hơn… nếu cô chọn đối phó với lũ đàn ông. Nhưng nếu gặp phải đám đàn bà thì mặc vào thứ cũ nhất và xấu xí nhất ấy.”
“Con đường này thú vị quá phải không Lewis?” Anne mơ màng hỏi. “Không phải là loại đường thẳng bon, mà là con đường khúc khuỷu nhiều ngã rẽ với đủ nét quyến rũ và các kiểu bất ngờ lấp ló. Cô lúc nào cũng yêu những khúc quanh trên đường.”
“Con đường Dawlish này dẫn đến đâu nhỉ?” Lewis thực tế hỏi… dẫu ngay lúc đó, cậu đang nghĩ bụng rằng giọng nói của cô Shirley lúc nào cũng khiến cậu nghĩ đến mùa xuân.
“Lewis, cô có thể trả lời một cách cau có và có giáo điều rằng nó chẳng đi đâu cả… nó chỉ nằm ngay đây thôi. Nhưng cô sẽ không làm thế. Còn chuyện nó đi đâu hay nó dẫn đến đâu thì… ai mà quan tâm chứ? Có lẽ nó đi đến điểm tận cùng của thế giới rồi vòng trở lại. Hãy nhớ những gì Emerson từng nói… ‘Ôi, tôi biết làm gì với thời gian đây?’ Đó là phương châm của chúng ta cho ngày hôm nay. Cô cho rằng vũ trụ sẽ lộn tùng phèo hết cả nếu chúng ta để mặc nó dù chỉ một thoáng. Nhìn những bóng mây kia kìa… vẻ thanh bình của thung lũng xanh tươi… và ngôi nhà mỗi góc đều có một cây táo. Hãy tưởng tượng hình ảnh nó vào mùa xuân đi. Hôm nay là một trong những ngày mà con người cảm thấy mình đang sống và là chị em với mọi làn gió trên đời. Cô rất thích khi thấy có rất nhiều lùm dương xỉ thơm ở ven đường… dương xỉ thơm có phủ lớp màng nhện mỏng như tơ. Nó gợi nhớ lại những ngày mà cô tưởng… hoặc tin… cô cho rằng mình thực sự tin chắc… rằng tơ nhện là khăn trải bàn của các nàng tiên.”
Họ tìm thấy một dòng suối nằm bên lề đường, trong một thung lũng óng ả vàng, rồi ngồi xuống lớp rêu trông như được dệt từ những nhành dương xỉ bé tí, uống nước từ chiếc cốc Lewis quấn bằng vỏ cây bạch dương.
“Ta sẽ chẳng bao giờ biết được uống nước hạnh phúc đến nhường nào cho đến khi ta đang khát khô và tìm được nguồn nước,” cậu tâm sự. “Mùa hè năm đó em làm việc trên con đường sắt người ta đang xây dựng ở phía Tây, có lần em bị đi lạc giữa đồng cỏ trong một ngày nắng nóng và lang thang suốt nhiều giờ liền. Em những tưởng mình sẽ chết vì khát mất, và rồi em bắt gặp căn lán của một người khai hoang, ông ta có một con suối nhỏ hệt thế này giữa rặng liễu. Em uống ừng ực đến khiếp! Kể từ đó, em hiểu rõ hơn về Kinh Thánh và tình yêu đối với nguồn nước trong lành nhắc đến trong đó.”
“Chúng ta sắp có thêm nước nữa từ một nguồn khác đấy,” Anne kêu lên với vẻ khá lo âu. “Sắp mưa rào rồi và… Lewis ạ, cô yêu các trận mưa rào, nhưng cô đang đội chiếc mũ đẹp nhất và mặc bộ váy tốt nhì. Mà trong nửa dặm quanh đây chẳng có một ngôi nhà nào.”
“Có một lò rèn cũ bỏ hoang ở đằng kia kìa,” Lewis an ủi, “ nhưng chúng ta phải chạy thật nhanh mới kịp.”
Bọn họ chạy thật nhanh, và đứng trong nơi trú ẩn tận hưởng cơn mưa rào một cách thích thú chẳng khác gì những điều tươi đẹp khác vừa gặp trong buổi chiều dạo chơi vô tư lự đó. Bức màn tĩnh lặng bao trùm vạn vật. Những làn gió non tơ vừa mới thi nhau thì thầm xào xạc dọc theo đường Dawlish nay đã gập cánh và trở nên yên ắng bất động. Không một chiếc lá nào rung rinh, không một bóng râm nào lay động. Những chiếc lá phong ở khúc ngoặt lật ngược lên khiến hàng cây trong giống như đang tái nhợt vì sợ hãi. Một bóng râm khổng lồ mát lạnh tựa làn sóng xanh dường như đang nhấn chìm chúng… đám mây đã đuổi kịp đến nơi. Và rồi mưa rơi, với gió hết luồn rồi lại giật. Những hạt mưa rào lộp độp rơi trên lá, nhảy múa dọc theo con đường đất đỏ mờ sương và vui vẻ gõ lanh canh lên mái lò rèn cũ.
“Nếu cơn mưa kéo dài mãi…” Lewis lo lắng.
Nhưng không. Cơn mưa chấm dứt bất ngờ chẳng kém lúc nó ập tới, và mặt trời lại chiếu sáng phía trên hàng cây ướt sũng lấp lánh. Những mảng trời xanh chói lóa lấp ló sau những tảng mây trắng rách bươm. Xa xa họ có thể nhìn thấy một ngọn đồi vẫn còn nhòe đi trong mưa, nhưng bên dưới họ, thung lũng uốn cong sóng sánh lớp sương mởn màu đào chín. Khu vườn xung quanh kiêu hãnh khoác lớp áo lóng lánh hệt như dạo xuân về, và một chú chim bắt đầu cất tiếng hót trên tán cây phong phía trên lò rèn, cứ như bị lừa rằng mùa xuân vừa đến vậy, cả thế giới thoắt trở nên hết sức tươi mát và ngọt ngào một cách thần kỳ.
“Hãy khám phá nó đi,” Anne đề nghị, khi họ tiếp tục chuyến đi, cô chỉ về phía một con đường mòn nhỏ chạy giữa hai hàng rào gỗ cũ kỹ lấp ló sau những cây hoa roi vàng.
“Chắc chẳng có ai sống dọc theo con đường đó đâu,” Lewis do dự. “Em cho rằng đó chỉ là một con đường dẫn thẳng xuống cảng.”
“Không sao đâu… chúng ta hãy đi dọc theo nó. Cô luôn dễ xiêu lòng với những con đường mòn… ở bên lề náo nhiệt, bị lãng quên, bị phủ kín và cô đơn. Ngửi thử mùi cỏ ướt đi nào, Lewis. Hơn nữa, cô cảm thấy từ tận trong xương rằng có một ngôi nhà nằm đâu đó… một ngôi nhà rất riêng… một ngôi nhà rất ăn ảnh.”
Bộ xương của Anne đã không lừa dối cô. Một ngôi nhà nhanh chóng xuất hiện… và lại còn rất ăn ảnh nữa chứ. Đó là một ngôi nhà kiểu cổ duyên dáng, mái sà thấp với cửa sổ vuông chia ô nhỏ. Những cây liễu cao to buông những cánh tay bảo hộ phía trên, cây bụi và cây lưu niên có phần hoang dại mọc um tùm chung quanh. Ngôi nhà tiều tụy và bạc màu mưa gió, nhưng chuồng ngựa rộng rãi đằng sau lại rất ấm cúng và thịnh vượng, hết sức hiện đại về mọi mặt. “Em hay nghe nói rằng, cô Shirley ạ, khi chuồng ngựa của một người đàn ông trông đẹp hơn nhà ở, đó là một dấu hiệu cho thấy thu nhập của ông ta hơn hẳn mức chi tiêu đấy,” Lewis nhận xét khi họ thong thả men theo vết đường mòn thấp thoáng hiện ra dưới lớp cỏ dại.
“Cô lại cho rằng đó là dấu hiệu cho thấy ông ta quan tâm đến ngựa nghẽo còn hơn cả gia đình của ông ta,” Anne phá lên cười. “Cô không hy vọng quyên góp được gì cho câu lạc bộ ở đây, nhưng đó là ngôi nhà có khả năng giành được giải thưởng nhất mà chúng ta từng thấy. Vẻ ảm đạm của nó sẽ không ảnh hưởng gì đến bức ảnh chụp đâu.”
“Con đường mòn này trông có vẻ như không có nhiều người qua lại,” Lewis nhún vai. “Rõ ràng là người sống ở đây không hay giao tiếp lắm. Em sợ là chúng ta phải đối mặt với sự thật rằng họ thậm chí không biết câu lạc bộ kịch nói nghĩa là gì. Dù sao chăng nữa, em sẽ chụp cho xong bức ảnh trước khi chúng ta đánh thức họ khỏi hang.”
Ngôi nhà dường như bị bỏ hoang, nhưng sau khi chụp ảnh xong, họ mở cánh cổng nhỏ sơn trắng, băng qua sân và gõ lên cánh cửa bếp màu xanh đã bạc màu, cửa trước rõ ràng là tương tự như cửa trước ở Bạch Dương Lộng Gió, chủ yếu là để làm cảnh chứ rất ít khi sử dụng… nếu một cánh cửa gần như bị cây kim ngân phủ kín có thể được dùng làm cảnh.
Họ cứ tưởng sẽ gặp được sự tiếp đón lịch sự mà trước giờ vẫn gặp trong những lần gõ cửa từng nhà, dẫu có được tiếp nối bởi sự hào phóng hay không. Kết quả là họ thực sự bất ngờ khi cánh cửa bật mở và xuất hiện nơi ngưỡng cửa không phải là bà vợ hay cô con gái ông chủ nông trại với nụ cười lịch thiệp như họ tưởng, mà là một người đàn ông vạm vỡ cao lớn khoảng năm mươi tuổi, tóc hoa râm, lông mày rậm rạp, cất tiếng chất vấn thẳng thừng:
“Các người muốn gì?”
“Chúng tôi hy vọng ông quan tâm đến câu lạc bộ kịch nói trường trung học của chúng tôi,” Anne bắt đầu hơi ngượng ngập. Nhưng cô được miễn khỏi phải nỗ lực gì thêm.
“Chưa bao giờ nghe. Chẳng muốn nghe. Không có liên quan gì đến tôi,” là câu cắt ngang đầy cương quyết, và cánh cửa đóng sập lại ngay trước mặt họ.
“Cô cho rằng chúng ta thật mất mặt quá chừng,” Anne than thở khi họ rời đi.
“Đó là một quý ông dễ thương lịch thiệp,” Lewis cười nhăn răng. “Em rất tội nghiệp cho vợ ông ta, nếu ông ta có vợ.”
“Cô không nghĩ rằng ông ta kiếm được bà vợ nào đâu, nếu không thì bà ta cũng đã khai hóa được ông chồng của mình chút ít rồi,” Anne nhận xét, cố gắng để phục hồi lòng tự trọng vừa bị đánh tan tác của mình. “Cô ước gì ông ta lọt vào tay Rebecca Dew. Nhưng ít nhất thì chúng mình cũng đã chụp được ảnh nhà ông ta, và cô linh tính rằng bức ảnh này sẽ giành được giải thường. Ái! Một viên sỏi vừa lọt vào giày của cô, và cô sẽ ngồi xuống bờ kè của quý ông này, dẫu có được ông ta cho phép hay không, và moi viên sỏi ra bằng được”
“Cũng may là ở đây đã ra khỏi tầm nhìn của ngôi nhà rồi,” Lewis nhận xét.
Anne vừa mới buộc xong dây giày thì họ nghe thấy có tiếng bước chân khẽ băng qua lùm cây bụi bên phải. Rồi một cậu bé con khoảng tám tuổi xuất hiện, cậu rụt rè đứng nhìn họ, bàn tay bụ bẫm giữ chặt lấy một chiếc bánh táo kẹp lớn. Đó là một cậu bé xinh xắn, với những lọn tóc nâu bóng mượt, đôi mắt nâu mở to chân thành và những đường nét thanh tú như tạc. Có gì đó thật tao nhã ở cậu bé, dẫu cậu để đầu trần, đi chân trần, và trên người chỉ độc một chiếc áo sơ mi vải xanh bạc màu cùng chiếc quần chẽn nhung te tua dài đến gối. Nhưng cậu trông hệt như một hoàng tử bé cải trang vi hành.
Ngay phía sau cậu có một chú chó Newfoundland đen to đùng, đầu cao gần đến ngang vai cậu.
Anne ngắm cậu bé với một nụ cười trìu mến luôn được lòng trẻ con.
“Chào bé con,” Lewis lên tiếng. “Cưng là con nhà nào vậy?”
Cậu bé đến gần, mỉm cười đáp lại câu hỏi của cậu, tay chìa ra miếng bánh táo.
“Cho anh ăn này,” cậu bé bẽn lẽn. “Ba làm cho em đó, nhưng em sẵn lòng tặng nó cho anh. Em có nhiều đồ ăn lắm.”
Lewis, vốn khá là vô tâm, đang định mở miệng từ chối món quà vặt của bé con, nhưng Anne nhanh chóng huých cậu một cái. Hiểu ý cô, cậu trịnh trọng nhận miếng bánh rồi đưa lại Anne, và rồi cô với vẻ trịnh trọng chẳng kém, bẻ đôi miếng bánh chia cho cậu phân nửa. Họ biết họ phải ăn nó và họ nghi ngờ sâu sắc về khả năng nấu nướng của “ba” cậu bé, nhưng miếng bánh đầu tiên đã trấn an họ. “Ba” cậu bé có lẽ không sở trường về khoản lịch thiệp nhưng ông ta rõ ràng biết làm bánh.
“Ngon thật,” Anne nhận xét. “Bé cưng, tên con là gì vậy?”
“Teddy Armstrong,” nhà từ thiện bé nhỏ đáp. “Nhưng ba luôn gọi con là Bạn Trẻ. Con là tất cả của ba, cô biết đấy. Ba thương con khủng khiếp và con cũng thương ba khủng khiếp luôn. Con sợ cô sẽ cho rằng ba con bất lịch sự, vì ba đóng cửa nhanh quá mà, nhưng ba con không có ý như vậy đâu. Con nghe nói cô xin thứ gì đó để ăn.” (“Không hề, nhưng chẳng quan trọng gì,” Anne nghĩ bụng.)
“Lúc đó con đang ở trong vườn sau bụi thục quỳ, nên con nghĩ mình nên đem cho cô cái bánh táo của con, vì con lúc nào cũng thương những người nghèo không có nhiều đồ ăn. Vì con lúc nào cũng có nhiều đồ ăn mà. Ba con là một đầu bếp hết sảy. Cô phải thử món pudding gạo mà ba làm mới được.”
“Thế ba em có cho nho khô vào bánh không?” Lewis hỏi với cái nháy mắt ranh mãnh.
“Nhiều ơi là nhiều luôn. Ba em chẳng keo kiệt chút nào.”
“Thế mẹ con đâu, hở bé cưng?” Anne hỏi.
“Mẹ con mất rồi. Bà Merrill có lần bảo con là mẹ đã đến thiên đường, nhưng ba con bảo rằng chẳng có nơi nào như thế, con nghĩ ba con lẽ ra phải biết chốn đó chứ. Ba con thông minh khủng khiếp. Ba đọc tới cả ngàn cuốn sách luôn. Khi lớn lên, con muốn trở thành người y hệt như ba… chỉ có điều con sẽ luôn cho người khác đồ ăn mỗi khi họ cần. Ba con không thích người lạ lắm đâu, cô biết đấy, nhưng ba tốt với con khủng khiếp.”
“Em có đi học không?” Lewis hỏi.
“Không. Ba dạy em học ở nhà. Nhưng hội đồng bảo với ba em rằng em phải đi học vào năm tới. Em nghĩ em thích đi học và chơi cùng vài cậu bé khác. Dĩ nhiên là em luôn có Carlo và ba em thì là bạn chơi rất tuyệt khi ba có thời gian. Ba em bận rộn lắm, anh biết đấy. Ba phải quản lý nông trại và giữ cho nhà cửa sạch sẽ nữa. Đó là lý do tại sao ba không rảnh rỗi để ngó ngàng gì đến người lạ, anh biết đấy. Khi em lớn hơn chút nữa, em sẽ có thể giúp ba thật nhiều việc, và rồi ba sẽ có nhiều thời gian để lịch sự với khách ghé qua.”
“Chiếc bánh táo này vừa miệng lắm, Bạn Trẻ ạ”, Lewis nuốt trọn mẩu bánh cuối cùng.
Đôi mắt Bạn Trẻ sáng lên.
“Thấy anh thích em mừng lắm,” cậu bé nói.
“Thế con có muốn chụp một tấm ảnh không?” Anne hỏi, cô cảm thấy không nên để tiền bạc chạm vào em nhỏ bé bỏng mà hào hiệp này. “Nếu con muốn, Lewis sẽ chụp cho con.”
“Ôi, sao lại không!” Bạn Trẻ hớn hở. “Chụp cả Carlo nữa nhé?”
“Đương nhiên là chụp cả Carlo rồi.”
Anne tạo dáng cho cả hai với bụi cây làm nền, chú bé đứng quàng tay quanh cổ người bạn to đùng rậm lông của mình, cả người và chó đều trông vui vẻ chẳng kém gì nhau, Lewis chụp ảnh cả hai bằng tấm phim cuối cùng còn lại.
“Nếu hình rửa ra đẹp, anh sẽ gửi nó cho em qua bưu điện,” cậu hứa. “Thế anh phải ghi địa chỉ thế nào?”
“Teddy Armstrong, con ông James Armstrong, đường Glencove,” Bạn Trẻ đáp. “Ôi, nhận được thứ gì đó gửi đến cho chính em qua bưu điện thì chắc là thích lắm đấy. Bảo đảm với anh là em sẽ cảm thấy oách dễ sợ luôn. Em sẽ không hé răng gì với ba về chuyện này, để nó trở thành một bất ngờ tuyệt vời dành cho ba.”
“Ừ, cứ chờ bưu kiện của em tới nơi trong vòng hai ba tuần nữa,” Lewis dặn dò, rồi họ tạm biệt cậu bé con. Nhưng đột nhiên Anne cúi xuống hôn lên khuôn mặt nhỏ rám nắng của cậu bé. Có gì đó ở cậu níu lại trái tim cô. Cậu bé thật dễ thương… thật hào hiệp… thật mồ côi!
Họ ngoái lại nhìn cậu bé trước khi đến khúc quanh, và thấy cậu đứng trên bờ kè cạnh chú chó, vẫy vẫy tay chào họ.
Đương nhiên là Rebecca Dew biết rõ mồn một về gia đình Armstrong.
“James Armstrong không sao phục hồi lại sau cái chết của vợ hồi năm năm trước,” chị kể. “Trước đó thì ông ta không tệ vậy đâu… khá là hòa nhã, dẫu có chút lánh đời. Đó là bản tính của ông ta. Anh ta chỉ quẩn quanh quanh cô vợ bé bỏng của mình… trẻ hơn anh ta đến hai mươi tuổi. Cái chết của cô vợ là một cú sốc khủng khiếp với anh ta, tôi nghe nói thế… thay đổi hoàn toàn tính cách của anh ta. Trở nên chua chát và gàn dở. Thậm chí không thèm thuê người trong nhà… tự mình quét tước nhà cửa và nuôi nấng đứa con. Anh ta sống độc thân nhiều năm liền trước khi kết hôn, nên anh ta cũng mát tay nội trợ lắm.”
“Nhưng đó không phải là cuộc sống tốt cho một đứa trẻ,” dì Chatty nói. “Cha gì mà chẳng hề đưa con đến nhà thờ hay bất kỳ nơi nào nhộn nhịp.”
“Anh ta tôn thờ cậu con trai, tôi nghe kể thế,” dì Kate bổ sung.
“Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác,” Rebecca Dew đột ngột trích dẫn Kinh Thánh.
“Nên bắt chuyện với lũ đàn ông nếu cô mặc chiếc váy và đội cái mũ đó,” Rebecca khuyên nhủ. “Tôi có khá nhiều kinh nghiệm đi xin quyên góp hồi còn trẻ và tất cả cho thấy mặc càng đẹp và bề ngoài càng tươm tất thì cô sẽ xin được nhiều tiền hơn… hoặc nhiều lời hứa đóng góp hơn… nếu cô chọn đối phó với lũ đàn ông. Nhưng nếu gặp phải đám đàn bà thì mặc vào thứ cũ nhất và xấu xí nhất ấy.”
“Con đường này thú vị quá phải không Lewis?” Anne mơ màng hỏi. “Không phải là loại đường thẳng bon, mà là con đường khúc khuỷu nhiều ngã rẽ với đủ nét quyến rũ và các kiểu bất ngờ lấp ló. Cô lúc nào cũng yêu những khúc quanh trên đường.”
“Con đường Dawlish này dẫn đến đâu nhỉ?” Lewis thực tế hỏi… dẫu ngay lúc đó, cậu đang nghĩ bụng rằng giọng nói của cô Shirley lúc nào cũng khiến cậu nghĩ đến mùa xuân.
“Lewis, cô có thể trả lời một cách cau có và có giáo điều rằng nó chẳng đi đâu cả… nó chỉ nằm ngay đây thôi. Nhưng cô sẽ không làm thế. Còn chuyện nó đi đâu hay nó dẫn đến đâu thì… ai mà quan tâm chứ? Có lẽ nó đi đến điểm tận cùng của thế giới rồi vòng trở lại. Hãy nhớ những gì Emerson từng nói… ‘Ôi, tôi biết làm gì với thời gian đây?’ Đó là phương châm của chúng ta cho ngày hôm nay. Cô cho rằng vũ trụ sẽ lộn tùng phèo hết cả nếu chúng ta để mặc nó dù chỉ một thoáng. Nhìn những bóng mây kia kìa… vẻ thanh bình của thung lũng xanh tươi… và ngôi nhà mỗi góc đều có một cây táo. Hãy tưởng tượng hình ảnh nó vào mùa xuân đi. Hôm nay là một trong những ngày mà con người cảm thấy mình đang sống và là chị em với mọi làn gió trên đời. Cô rất thích khi thấy có rất nhiều lùm dương xỉ thơm ở ven đường… dương xỉ thơm có phủ lớp màng nhện mỏng như tơ. Nó gợi nhớ lại những ngày mà cô tưởng… hoặc tin… cô cho rằng mình thực sự tin chắc… rằng tơ nhện là khăn trải bàn của các nàng tiên.”
Họ tìm thấy một dòng suối nằm bên lề đường, trong một thung lũng óng ả vàng, rồi ngồi xuống lớp rêu trông như được dệt từ những nhành dương xỉ bé tí, uống nước từ chiếc cốc Lewis quấn bằng vỏ cây bạch dương.
“Ta sẽ chẳng bao giờ biết được uống nước hạnh phúc đến nhường nào cho đến khi ta đang khát khô và tìm được nguồn nước,” cậu tâm sự. “Mùa hè năm đó em làm việc trên con đường sắt người ta đang xây dựng ở phía Tây, có lần em bị đi lạc giữa đồng cỏ trong một ngày nắng nóng và lang thang suốt nhiều giờ liền. Em những tưởng mình sẽ chết vì khát mất, và rồi em bắt gặp căn lán của một người khai hoang, ông ta có một con suối nhỏ hệt thế này giữa rặng liễu. Em uống ừng ực đến khiếp! Kể từ đó, em hiểu rõ hơn về Kinh Thánh và tình yêu đối với nguồn nước trong lành nhắc đến trong đó.”
“Chúng ta sắp có thêm nước nữa từ một nguồn khác đấy,” Anne kêu lên với vẻ khá lo âu. “Sắp mưa rào rồi và… Lewis ạ, cô yêu các trận mưa rào, nhưng cô đang đội chiếc mũ đẹp nhất và mặc bộ váy tốt nhì. Mà trong nửa dặm quanh đây chẳng có một ngôi nhà nào.”
“Có một lò rèn cũ bỏ hoang ở đằng kia kìa,” Lewis an ủi, “ nhưng chúng ta phải chạy thật nhanh mới kịp.”
Bọn họ chạy thật nhanh, và đứng trong nơi trú ẩn tận hưởng cơn mưa rào một cách thích thú chẳng khác gì những điều tươi đẹp khác vừa gặp trong buổi chiều dạo chơi vô tư lự đó. Bức màn tĩnh lặng bao trùm vạn vật. Những làn gió non tơ vừa mới thi nhau thì thầm xào xạc dọc theo đường Dawlish nay đã gập cánh và trở nên yên ắng bất động. Không một chiếc lá nào rung rinh, không một bóng râm nào lay động. Những chiếc lá phong ở khúc ngoặt lật ngược lên khiến hàng cây trong giống như đang tái nhợt vì sợ hãi. Một bóng râm khổng lồ mát lạnh tựa làn sóng xanh dường như đang nhấn chìm chúng… đám mây đã đuổi kịp đến nơi. Và rồi mưa rơi, với gió hết luồn rồi lại giật. Những hạt mưa rào lộp độp rơi trên lá, nhảy múa dọc theo con đường đất đỏ mờ sương và vui vẻ gõ lanh canh lên mái lò rèn cũ.
“Nếu cơn mưa kéo dài mãi…” Lewis lo lắng.
Nhưng không. Cơn mưa chấm dứt bất ngờ chẳng kém lúc nó ập tới, và mặt trời lại chiếu sáng phía trên hàng cây ướt sũng lấp lánh. Những mảng trời xanh chói lóa lấp ló sau những tảng mây trắng rách bươm. Xa xa họ có thể nhìn thấy một ngọn đồi vẫn còn nhòe đi trong mưa, nhưng bên dưới họ, thung lũng uốn cong sóng sánh lớp sương mởn màu đào chín. Khu vườn xung quanh kiêu hãnh khoác lớp áo lóng lánh hệt như dạo xuân về, và một chú chim bắt đầu cất tiếng hót trên tán cây phong phía trên lò rèn, cứ như bị lừa rằng mùa xuân vừa đến vậy, cả thế giới thoắt trở nên hết sức tươi mát và ngọt ngào một cách thần kỳ.
“Hãy khám phá nó đi,” Anne đề nghị, khi họ tiếp tục chuyến đi, cô chỉ về phía một con đường mòn nhỏ chạy giữa hai hàng rào gỗ cũ kỹ lấp ló sau những cây hoa roi vàng.
“Chắc chẳng có ai sống dọc theo con đường đó đâu,” Lewis do dự. “Em cho rằng đó chỉ là một con đường dẫn thẳng xuống cảng.”
“Không sao đâu… chúng ta hãy đi dọc theo nó. Cô luôn dễ xiêu lòng với những con đường mòn… ở bên lề náo nhiệt, bị lãng quên, bị phủ kín và cô đơn. Ngửi thử mùi cỏ ướt đi nào, Lewis. Hơn nữa, cô cảm thấy từ tận trong xương rằng có một ngôi nhà nằm đâu đó… một ngôi nhà rất riêng… một ngôi nhà rất ăn ảnh.”
Bộ xương của Anne đã không lừa dối cô. Một ngôi nhà nhanh chóng xuất hiện… và lại còn rất ăn ảnh nữa chứ. Đó là một ngôi nhà kiểu cổ duyên dáng, mái sà thấp với cửa sổ vuông chia ô nhỏ. Những cây liễu cao to buông những cánh tay bảo hộ phía trên, cây bụi và cây lưu niên có phần hoang dại mọc um tùm chung quanh. Ngôi nhà tiều tụy và bạc màu mưa gió, nhưng chuồng ngựa rộng rãi đằng sau lại rất ấm cúng và thịnh vượng, hết sức hiện đại về mọi mặt. “Em hay nghe nói rằng, cô Shirley ạ, khi chuồng ngựa của một người đàn ông trông đẹp hơn nhà ở, đó là một dấu hiệu cho thấy thu nhập của ông ta hơn hẳn mức chi tiêu đấy,” Lewis nhận xét khi họ thong thả men theo vết đường mòn thấp thoáng hiện ra dưới lớp cỏ dại.
“Cô lại cho rằng đó là dấu hiệu cho thấy ông ta quan tâm đến ngựa nghẽo còn hơn cả gia đình của ông ta,” Anne phá lên cười. “Cô không hy vọng quyên góp được gì cho câu lạc bộ ở đây, nhưng đó là ngôi nhà có khả năng giành được giải thưởng nhất mà chúng ta từng thấy. Vẻ ảm đạm của nó sẽ không ảnh hưởng gì đến bức ảnh chụp đâu.”
“Con đường mòn này trông có vẻ như không có nhiều người qua lại,” Lewis nhún vai. “Rõ ràng là người sống ở đây không hay giao tiếp lắm. Em sợ là chúng ta phải đối mặt với sự thật rằng họ thậm chí không biết câu lạc bộ kịch nói nghĩa là gì. Dù sao chăng nữa, em sẽ chụp cho xong bức ảnh trước khi chúng ta đánh thức họ khỏi hang.”
Ngôi nhà dường như bị bỏ hoang, nhưng sau khi chụp ảnh xong, họ mở cánh cổng nhỏ sơn trắng, băng qua sân và gõ lên cánh cửa bếp màu xanh đã bạc màu, cửa trước rõ ràng là tương tự như cửa trước ở Bạch Dương Lộng Gió, chủ yếu là để làm cảnh chứ rất ít khi sử dụng… nếu một cánh cửa gần như bị cây kim ngân phủ kín có thể được dùng làm cảnh.
Họ cứ tưởng sẽ gặp được sự tiếp đón lịch sự mà trước giờ vẫn gặp trong những lần gõ cửa từng nhà, dẫu có được tiếp nối bởi sự hào phóng hay không. Kết quả là họ thực sự bất ngờ khi cánh cửa bật mở và xuất hiện nơi ngưỡng cửa không phải là bà vợ hay cô con gái ông chủ nông trại với nụ cười lịch thiệp như họ tưởng, mà là một người đàn ông vạm vỡ cao lớn khoảng năm mươi tuổi, tóc hoa râm, lông mày rậm rạp, cất tiếng chất vấn thẳng thừng:
“Các người muốn gì?”
“Chúng tôi hy vọng ông quan tâm đến câu lạc bộ kịch nói trường trung học của chúng tôi,” Anne bắt đầu hơi ngượng ngập. Nhưng cô được miễn khỏi phải nỗ lực gì thêm.
“Chưa bao giờ nghe. Chẳng muốn nghe. Không có liên quan gì đến tôi,” là câu cắt ngang đầy cương quyết, và cánh cửa đóng sập lại ngay trước mặt họ.
“Cô cho rằng chúng ta thật mất mặt quá chừng,” Anne than thở khi họ rời đi.
“Đó là một quý ông dễ thương lịch thiệp,” Lewis cười nhăn răng. “Em rất tội nghiệp cho vợ ông ta, nếu ông ta có vợ.”
“Cô không nghĩ rằng ông ta kiếm được bà vợ nào đâu, nếu không thì bà ta cũng đã khai hóa được ông chồng của mình chút ít rồi,” Anne nhận xét, cố gắng để phục hồi lòng tự trọng vừa bị đánh tan tác của mình. “Cô ước gì ông ta lọt vào tay Rebecca Dew. Nhưng ít nhất thì chúng mình cũng đã chụp được ảnh nhà ông ta, và cô linh tính rằng bức ảnh này sẽ giành được giải thường. Ái! Một viên sỏi vừa lọt vào giày của cô, và cô sẽ ngồi xuống bờ kè của quý ông này, dẫu có được ông ta cho phép hay không, và moi viên sỏi ra bằng được”
“Cũng may là ở đây đã ra khỏi tầm nhìn của ngôi nhà rồi,” Lewis nhận xét.
Anne vừa mới buộc xong dây giày thì họ nghe thấy có tiếng bước chân khẽ băng qua lùm cây bụi bên phải. Rồi một cậu bé con khoảng tám tuổi xuất hiện, cậu rụt rè đứng nhìn họ, bàn tay bụ bẫm giữ chặt lấy một chiếc bánh táo kẹp lớn. Đó là một cậu bé xinh xắn, với những lọn tóc nâu bóng mượt, đôi mắt nâu mở to chân thành và những đường nét thanh tú như tạc. Có gì đó thật tao nhã ở cậu bé, dẫu cậu để đầu trần, đi chân trần, và trên người chỉ độc một chiếc áo sơ mi vải xanh bạc màu cùng chiếc quần chẽn nhung te tua dài đến gối. Nhưng cậu trông hệt như một hoàng tử bé cải trang vi hành.
Ngay phía sau cậu có một chú chó Newfoundland đen to đùng, đầu cao gần đến ngang vai cậu.
Anne ngắm cậu bé với một nụ cười trìu mến luôn được lòng trẻ con.
“Chào bé con,” Lewis lên tiếng. “Cưng là con nhà nào vậy?”
Cậu bé đến gần, mỉm cười đáp lại câu hỏi của cậu, tay chìa ra miếng bánh táo.
“Cho anh ăn này,” cậu bé bẽn lẽn. “Ba làm cho em đó, nhưng em sẵn lòng tặng nó cho anh. Em có nhiều đồ ăn lắm.”
Lewis, vốn khá là vô tâm, đang định mở miệng từ chối món quà vặt của bé con, nhưng Anne nhanh chóng huých cậu một cái. Hiểu ý cô, cậu trịnh trọng nhận miếng bánh rồi đưa lại Anne, và rồi cô với vẻ trịnh trọng chẳng kém, bẻ đôi miếng bánh chia cho cậu phân nửa. Họ biết họ phải ăn nó và họ nghi ngờ sâu sắc về khả năng nấu nướng của “ba” cậu bé, nhưng miếng bánh đầu tiên đã trấn an họ. “Ba” cậu bé có lẽ không sở trường về khoản lịch thiệp nhưng ông ta rõ ràng biết làm bánh.
“Ngon thật,” Anne nhận xét. “Bé cưng, tên con là gì vậy?”
“Teddy Armstrong,” nhà từ thiện bé nhỏ đáp. “Nhưng ba luôn gọi con là Bạn Trẻ. Con là tất cả của ba, cô biết đấy. Ba thương con khủng khiếp và con cũng thương ba khủng khiếp luôn. Con sợ cô sẽ cho rằng ba con bất lịch sự, vì ba đóng cửa nhanh quá mà, nhưng ba con không có ý như vậy đâu. Con nghe nói cô xin thứ gì đó để ăn.” (“Không hề, nhưng chẳng quan trọng gì,” Anne nghĩ bụng.)
“Lúc đó con đang ở trong vườn sau bụi thục quỳ, nên con nghĩ mình nên đem cho cô cái bánh táo của con, vì con lúc nào cũng thương những người nghèo không có nhiều đồ ăn. Vì con lúc nào cũng có nhiều đồ ăn mà. Ba con là một đầu bếp hết sảy. Cô phải thử món pudding gạo mà ba làm mới được.”
“Thế ba em có cho nho khô vào bánh không?” Lewis hỏi với cái nháy mắt ranh mãnh.
“Nhiều ơi là nhiều luôn. Ba em chẳng keo kiệt chút nào.”
“Thế mẹ con đâu, hở bé cưng?” Anne hỏi.
“Mẹ con mất rồi. Bà Merrill có lần bảo con là mẹ đã đến thiên đường, nhưng ba con bảo rằng chẳng có nơi nào như thế, con nghĩ ba con lẽ ra phải biết chốn đó chứ. Ba con thông minh khủng khiếp. Ba đọc tới cả ngàn cuốn sách luôn. Khi lớn lên, con muốn trở thành người y hệt như ba… chỉ có điều con sẽ luôn cho người khác đồ ăn mỗi khi họ cần. Ba con không thích người lạ lắm đâu, cô biết đấy, nhưng ba tốt với con khủng khiếp.”
“Em có đi học không?” Lewis hỏi.
“Không. Ba dạy em học ở nhà. Nhưng hội đồng bảo với ba em rằng em phải đi học vào năm tới. Em nghĩ em thích đi học và chơi cùng vài cậu bé khác. Dĩ nhiên là em luôn có Carlo và ba em thì là bạn chơi rất tuyệt khi ba có thời gian. Ba em bận rộn lắm, anh biết đấy. Ba phải quản lý nông trại và giữ cho nhà cửa sạch sẽ nữa. Đó là lý do tại sao ba không rảnh rỗi để ngó ngàng gì đến người lạ, anh biết đấy. Khi em lớn hơn chút nữa, em sẽ có thể giúp ba thật nhiều việc, và rồi ba sẽ có nhiều thời gian để lịch sự với khách ghé qua.”
“Chiếc bánh táo này vừa miệng lắm, Bạn Trẻ ạ”, Lewis nuốt trọn mẩu bánh cuối cùng.
Đôi mắt Bạn Trẻ sáng lên.
“Thấy anh thích em mừng lắm,” cậu bé nói.
“Thế con có muốn chụp một tấm ảnh không?” Anne hỏi, cô cảm thấy không nên để tiền bạc chạm vào em nhỏ bé bỏng mà hào hiệp này. “Nếu con muốn, Lewis sẽ chụp cho con.”
“Ôi, sao lại không!” Bạn Trẻ hớn hở. “Chụp cả Carlo nữa nhé?”
“Đương nhiên là chụp cả Carlo rồi.”
Anne tạo dáng cho cả hai với bụi cây làm nền, chú bé đứng quàng tay quanh cổ người bạn to đùng rậm lông của mình, cả người và chó đều trông vui vẻ chẳng kém gì nhau, Lewis chụp ảnh cả hai bằng tấm phim cuối cùng còn lại.
“Nếu hình rửa ra đẹp, anh sẽ gửi nó cho em qua bưu điện,” cậu hứa. “Thế anh phải ghi địa chỉ thế nào?”
“Teddy Armstrong, con ông James Armstrong, đường Glencove,” Bạn Trẻ đáp. “Ôi, nhận được thứ gì đó gửi đến cho chính em qua bưu điện thì chắc là thích lắm đấy. Bảo đảm với anh là em sẽ cảm thấy oách dễ sợ luôn. Em sẽ không hé răng gì với ba về chuyện này, để nó trở thành một bất ngờ tuyệt vời dành cho ba.”
“Ừ, cứ chờ bưu kiện của em tới nơi trong vòng hai ba tuần nữa,” Lewis dặn dò, rồi họ tạm biệt cậu bé con. Nhưng đột nhiên Anne cúi xuống hôn lên khuôn mặt nhỏ rám nắng của cậu bé. Có gì đó ở cậu níu lại trái tim cô. Cậu bé thật dễ thương… thật hào hiệp… thật mồ côi!
Họ ngoái lại nhìn cậu bé trước khi đến khúc quanh, và thấy cậu đứng trên bờ kè cạnh chú chó, vẫy vẫy tay chào họ.
Đương nhiên là Rebecca Dew biết rõ mồn một về gia đình Armstrong.
“James Armstrong không sao phục hồi lại sau cái chết của vợ hồi năm năm trước,” chị kể. “Trước đó thì ông ta không tệ vậy đâu… khá là hòa nhã, dẫu có chút lánh đời. Đó là bản tính của ông ta. Anh ta chỉ quẩn quanh quanh cô vợ bé bỏng của mình… trẻ hơn anh ta đến hai mươi tuổi. Cái chết của cô vợ là một cú sốc khủng khiếp với anh ta, tôi nghe nói thế… thay đổi hoàn toàn tính cách của anh ta. Trở nên chua chát và gàn dở. Thậm chí không thèm thuê người trong nhà… tự mình quét tước nhà cửa và nuôi nấng đứa con. Anh ta sống độc thân nhiều năm liền trước khi kết hôn, nên anh ta cũng mát tay nội trợ lắm.”
“Nhưng đó không phải là cuộc sống tốt cho một đứa trẻ,” dì Chatty nói. “Cha gì mà chẳng hề đưa con đến nhà thờ hay bất kỳ nơi nào nhộn nhịp.”
“Anh ta tôn thờ cậu con trai, tôi nghe kể thế,” dì Kate bổ sung.
“Trước mặt ta, ngươi chớ có các thần khác,” Rebecca Dew đột ngột trích dẫn Kinh Thánh.