Chương 17
Chuck tỉnh dậy trên ghế bành lúc rạng sáng, mệt mỏi nhìn lên bầu trời tối đen, đổi tư thế rồi lại ngủ thiếp đi. Chỉ cho tới khi nắng gắt soi rọi cả gương mặt, hắn mới lần nữa mở mắt ra, toàn thân tê tái, nhất là ở hai bên thái dương, hẳn là món quà do rượu để lại trước khi tạm biệt nhau đêm qua. Chuck hít một hơi thật sâu và thuyết phục bản thân đứng dậy, ly rượu cạn đáy trên sàn ngay lập tức bị hắn đá lăn lông lốc vào gầm giường, hắn gãi mũi, quyết định giả bộ như không nhìn thấy gì rồi đi vào phòng tắm.
Hắn không thấy Louis trong phòng ăn, ở đó chỉ có Hầu tước phu nhân với chiếc đài phát thanh đang bật, phát thanh viên đang nói về trận giao tranh bi thảm ở Dieppe¹ đêm qua khi mà Hải quân Hoàng gia Anh cùng với Lực lượng Viễn chinh Canada² đã đổ bộ vào đất liền nhằm chiếm đóng thành phố cảng này của Pháp. Sự bất thành, số thương vong và tù binh cũng chưa được xác định, chỉ có một điều khá chắc chắn là những người lính Canada ấy có lẽ sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Thế rồi Chuck nhận ra rằng mấy ngày qua hắn chưa từng thấy chiếc đài phát thanh nào trong dinh thự, có lẽ Louis đã giấu nó đi, chặn đứng tin tức về chiến trận bên ngoài những cửa sổ kính bóng loáng này. Hắn đứng ở hành lang lắng nghe thêm một lúc, sau đó rời đi khi phát thanh viên bắt đầu nói về tổng thiệt hại của các tàu đổ bộ.
Trong sảnh Thổ Nhĩ Kỳ cũng không có ai, Chuck nhìn tấm thảm, suy xét một hồi rồi quay trở lại nhà kính, đi vòng qua cây ca cao, mở cửa hông và bước ra vườn. Trời nắng, nhưng không khí vẫn thoang thoảng mùi mưa và bùn lầy, con đường đất hẹp giữa vườn vẫn chưa khôi phục sau trận mưa xối xả hai ngày trước, chỗ thì khô ráo, chỗ vẫn lầy lội. Cho dù chưa hề được huấn luyện truy tìm và cứu nạn bao giờ nhưng rất nhanh Louis vẫn bị hắn phát hiện bởi dấu giày đơn độc cùng với vết lõm sâu do chiếc nạng lưu lại rõ ràng như chiếc biển chỉ dẫn trong bùn ướt.
Cuối cùng hắn tìm thấy Louis ở xích đu. Thứ này được treo trên một cành cây sồi thô ráp, từ những vòng sắt cắm sâu hoắm kia có thể nhận ra nó đã tồn tại ở đây qua nhiều thế hệ. Cây sồi độc chiếm toàn bộ con dốc nhỏ, bên dưới tán cây, nơi nào có bóng râm thì hầu như không có cỏ, như thể chúng nó không phải vô cớ mà bị tuyệt diệt. Cây sồi luôn như vậy, nhìn thì có vẻ tĩnh lặng và thiện lành, nhưng bản chất của nó chẳng khác nào một tên cướp, cố chiếm lấy tất cả nguồn nước và ánh nắng – Chuck không nhớ ai đã nói với mình câu này, có lẽ là ông bô.
Louis ngồi trên xích đu, nắm lấy dây gai xù xì, nhìn vào hư vô. Chuck cũng theo hướng đó nhìn về phía đồng cỏ mênh mông nối tiếp nhau, mặt trời đang lên nhuộm cho màn sương sớm chưa tan hết một màu vàng trong trẻo, khu rừng thưa thớt ẩn hiện đằng xa trông như một bức tranh cắt giấy chưa hoàn thành. Một chú chim lẻ loi vỗ cánh giữa ban mai mịt mù, chẳng chút vội vàng, có lẽ chỉ đang từ từ thử góc gió.
"Khi ông cố của tôi tạo ra chiếc xích đu này, từ nơi đây có thể nhìn thấy cả hồ nước." Louis nói, không chào hỏi hay báo trước gì, "Ấy là một cái hồ nhỏ, "chỉ to bằng chiếc túi" mà lại rất sâu, bờ hồ dốc đứng như một vách đá. Từng có một phu xe chết đuối ở đó vì bị cuốn theo chiếc xe ngựa và rơi xuống nước trong một đêm giông bão. Một thời gian sau, dòng suối nhỏ đổi hướng, hồ nước cũng biến mất theo, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người tuyên bố đã nhìn thấy hồn ma của phu xe đang điều khiển toa xe lao xuống hồ nước đã chẳng còn tồn tại kia."
Chuck không biết anh muốn biểu đạt cái gì, đành đút tay vào túi, gật đầu: "Ừ hứ."
"Nói không chừng sau này cũng sẽ có vài ngư dân xui xẻo bắt gặp những chiếc máy bay ma hết lần này đến lần khác từ trên bầu trời xa xăm kia rơi thẳng xuống bên bờ biển."
"Tôi chưa bao giờ nghĩ theo hướng đó." Chuck đáp lời anh một cách thành thật, mà từ "bờ biển" này lại như nhắc nhở hắn, "Này, tôi vừa nghe trên đài-"
"Ở Dieppe, tôi biết, sáng sớm nay vừa nhận được điện báo. Đồi Biggin còn đang kiểm kê số lượng, tình hình cũng không quá khả quan, chúng ta tổn thất sáu máy bay, mất tích hai chiếc." Anh trầm mặc một hồi, lắc đầu, "Vốn dĩ tôi là người sẽ dẫn đội."
Nhưng bọn họ đều hiểu rằng đội do ai dẫn cũng không khác đi là bao, bởi vì phi đội trưởng thường chỉ có quyền chỉ huy ba máy bay, nhiều nhất là sáu chiếc. Chuck hắng giọng, lúng túng trấn an anh một chút, "Đó không phải lỗi của anh-"
"Charles." Louis gọi tên hắn, rất khẽ, nhưng đủ để khiến Chuck ngừng nói ngay lập tức, "Chúng ta nói chuyện khác được không?"
Ngoại trừ chiến tranh, chúng ta còn gì khác để nói đây? Chuck muốn hỏi như vậy, nhưng cuối cùng không nói ra. Tán sồi khổng lồ đung đưa xào xạc trên đỉnh đầu. Louis chạm nhẹ vào tay Chuck rồi nắm cổ tay hắn: "Còn nữa, xin lỗi nhé."
"Vì chuyện gì?"
"Sự khó xử tối qua. Như đã báo trước với anh, mẹ tôi không phải là một người đặc biệt tốt bụng hoà ái."
"Đó là do anh chưa từng gặp qua lão già nhà tôi. Hai người họ có khi lại hợp nhau, tuy là ổng không biết cách chửi rủa thâm sâu có văn hoá, nhưng về bản chất thì cũng như nhau."
"Lần đầu tiên tôi thấy anh nói cũng có lý đấy, Trung sĩ."
"Em lại cợt nhả với tôi, chứng tỏ là em đã quay về như bình thường, không còn là một thi sĩ đa sầu đa cảm nữa. Chào mừng trở lại nhé."
"Em không hề-"
Anh còn chưa kịp nói hết câu, Chuck đã cúi xuống hôn anh, bàn tay nhẹ nhàng giữ đằng sau gáy anh, Louis thì túm chặt cổ áo hắn. Qua đi một lúc lâu, hai người mới thở hổn hển tách nhau ra, theo bản năng mà quan sát xung quanh với nỗi lo trực trào rằng người làm vườn hoặc người gác rừng có thể sẽ nhìn thấy bọn họ. Sương sớm tan đi, ngoại trừ những cây du và bụi cỏ đang rung rinh thì chẳng có bất kỳ thứ gì cử động nào trong vườn hoa hay là trên thảm cỏ.
"Em không hề "đa sầu đa cảm"." Louis tiếp tục bào chữa.
"À, đúng thế, em là người vui tính nhất mà tôi từng gặp, một diễn viên hài thực thụ."
"Còn anh thì đã biết mỉa mai một cách thành thục."
"Tôi có một người thầy giỏi cực kỳ."
Louis thở dài, "Anh có muốn tìm một nơi yên tĩnh thưởng trà không?"
"Vô cùng muốn."
–
Những ngày còn lại của tháng tám, bọn họ không bàn chiến sự nữa, hai người đều vô cùng cẩn trọng mà tránh nói về chủ đề chết chóc đẫm máu bọc dây thép gai này. Vết thương của Louis có chuyển biến tốt, cuối cùng anh cũng có thể quẳng cái nạng đi, mấy hôm đầu thì bám vào nội thất hoặc là cánh tay của Chuck để di chuyển quanh phòng một cách chậm rãi, sau đó từ từ mở rộng phạm vi hoạt động ra thành tản bộ trong vườn và lên xuống cầu thang.
Từ sau khi Hầu tước phu nhân trở về, Louis đã tạm biệt sảnh Thổ Nhĩ Kỳ ấm áp trải thảm dày, hay chính xác hơn là toàn bộ tầng một, đưa Chuck trốn lên gác mái. Điều này có nghĩa là họ phải leo lên bốn tầng lầu, trong đó còn có một đoạn cầu thang gỗ chật hẹp giữ lại dùng khi bảo trì và sửa chữa, lọt thỏm giữa tường đá và tường gỗ, nghe thoang thoảng mùi chuột. Thế nhưng tất cả đều đáng, không gian nhỏ ẩn mình dưới mái nhà riêng tư này ấm cúng, tràn ngập ánh nắng tràn vào từ cửa sổ. Đã rất lâu rồi không có người đặt chân tới đây, bụi bặm phủ đầy tựa như một tầng tuyết mỏng, quá đủ để in lại dấu chân. Mạng nhện thì chằng chịt ở khắp các cạnh của những thùng gỗ được xếp chồng lên nhau, có vài thùng đủ lớn để chứa cả một chiếc đàn dương cầm, một số khác thì nhỏ như hộp trang sức mà không tài nào mở được. Trong góc phòng còn có mấy chiếc rương bằng gỗ mun xỉn màu với các góc nạm đồng, tên chú Albert được viết nguệch ngoạc trên nhãn dán, bên trong chứa các bộ phận rời rạc của xe trượt tuyết, chiếc búa địa chất và bình dưỡng khí. Louis hơi thất vọng, xét riêng việc rương này thuộc về chú Albert thì ít nhất bên trong phải có xác ướp hay gì đó mới đúng.
Những ngày giông bão, dưới chiếc đèn treo kiểu cũ tìm được trong thùng gỗ nào đó, họ làm tình đầy thong thả trên mặt sàn, tiếng sét đánh mưa tuôn át đi những tiếng thở dốc xen lẫn với tiếng gọi khe khẽ. Chuck nằm trên chiếc chăn trộm được từ dưới nhà, nương theo ánh đèn yếu ớt mà ngắm nhìn bờ vai trần trụi cùng với sườn mặt của anh, để rồi khi ánh mắt ấy của hắn bị phát hiện, Louis chỉ nhếch miệng cười rồi hỏi có phải anh có chuyện gì muốn nói không.
Tôi hy vọng chúng ta không phải trở về, Chuck muốn nói vậy, tôi muốn cùng em mãi mãi ở lại căn gác ẩm thấp mốc meo này.
"Không có gì." Giọng hắn vang lên giữa tiếng mưa ầm ầm đập vào cửa sổ.
Louis đưa tay chạm lên vết sẹo nơi khóe mắt Chuck, này là thú vui mới của anh gần đây, cũng là thứ thay thế cho những nụ hôn. Thiếu úy ngồi dậy, rùng mình, mặc quần áo lại. Chuck cũng qua loa tròng quần vào, đến bên cửa sổ, nhìn ra cơn mưa ào ạt ngoài kia đang khiến những ngọn cây xám xịt nghiêng ngả trong gió, mái nhà bằng gỗ cũ kỹ thỉnh thoảng lại kêu kẽo kẹt.
"Charles."
Chuck quay lại nhìn Louis.
"Tuần sau chúng ta sẽ quay lại Đồi Biggin, có thể là thứ tư, muộn nhất là sáng thứ năm, em sẽ gửi một bức điện tín cho Đại úy Milston."
"A." Chuck đờ đẫn phản ứng bằng một từ đơn âm vô nghĩa, hơi lạnh ẩm ướt trên gác mái bỗng trở nên thật rõ ràng khi chúng gặm nhấm làn da trần của hắn, "Được."
Hai người đều hiểu chuyện đó nghĩa là gì, kỳ nghỉ này kết thúc, chúng ta cũng kết thúc. Louis dùng một chiếc đĩa ăn từ kim loại đã rỉ sét làm gương, cài khuy chỉnh tề, thắt lại cà vạt rồi vắt áo khoác lên cánh tay. "Đêm nay gặp nhé? Em sẽ để mở cửa sổ."
"Đêm nay gặp lại."
Chung giường đã là chuyện hàng đêm của cả hai, đôi khi họ làm tình, đôi khi chỉ đơn giản là nằm cạnh nhau. Đêm cuối cùng trước khi rời khỏi dinh thự cũng qua đi như vậy, họ lặng thinh trong bóng tối lắng nghe hơi thở của người kia, biết rõ người ta vẫn chưa ngủ mà chẳng thốt lên lời.
"Tôi có thể hỏi tại sao không?" Khi những tia nắng ban mai xỏ xuyên qua từng kẽ hở của rèm cửa, Chuck mới phá vỡ sự im ắng ấy.
Louis khẽ cựa mình, dựa vào vai hắn: "Chuyện gì?"
"Tại sao anh lại không tới Bộ chỉ huy?"
"Tôi là một người lính, Charles, mà người lính thì sẽ không rời khỏi tiền tuyến." Louis bò dậy, từng đợt không khí lạnh lẽo nhân cơ hội này ùa vào trong chăn, "Dậy nào, chúng ta chuẩn bị phải đi rồi."
Hôm nay là thứ năm. Tháng chín đã tới, tiết trời se se lạnh đã trở nên rõ ràng hơn, mang theo mùi khoáng chất³ hững hờ. Louis lại mặc quân phục, hệt như lần đầu họ gặp nhau – từ ống quần tới vành mũ, khóe miệng hay ánh mắt đều chẳng lưu lại cảm xúc gì. Chuck khởi động chiếc xe tải, tay gác lên cửa kính, quay sang nhìn viên sĩ quan xa lạ kia đang nói lời tạm biệt với mẹ anh. Cuối cùng, Louis xách hành lý lên xe và gật đầu với Chuck.
Chiếc xe tải quân sự chậm rãi lăn bánh trên con đường rải sỏi, hình bóng của dinh thự nhỏ dần trong gương chiếu hậu, cuối cùng khuất hẳn sau rừng cây vàng úa.
Họ trở lại căn cứ Đồi Biggin vào đúng giờ nghỉ trưa, các nhà chứa máy bay và đường băng đều vắng lặng không một bóng người. Louis vừa định mở cửa xe thì Chuck lên tiếng,
"Vậy thôi à? Tôi còn tưởng... Tôi định nói là, chúng ta vẫn chưa tạm biệt nhau."
"Chúng ta phục vụ trong cùng một căn cứ, tại sao phải tạm biệt nhau?"
"Tôi tưởng rằng-"
"Đừng "tưởng rằng" bất cứ điều gì nữa, Trung sĩ." Louis giữ cửa xe, nhìn hắn, "Anh vẫn chưa quên điều kiện chúng ta đã thảo luận chứ?"
"Nhớ rất rõ, thưa chỉ huy."
Louis nhìn hắn nhìn một cái, chỉnh lại mũ rồi đóng cửa xe.
–
Chú thích của người dịch (Translator's Note):
1. Tác giả chú thích: Trận Dieppe (Dieppe Raid) diễn ra ngày 18-19 tháng 8 năm 1942, với sự tham gia của 6000 bộ binh, phần lớn là lính Canada, tỷ lệ thương vong cao tới 60%. Hải quân và Không quân Hoàng gia Anh cũng như là khối Đồng Minh tham gia hỗ trợ, trong đó Hải quân tổn thất 1 Khu trục hạm, 33 Tàu đổ bộ; còn Không quân tổn thất 106 máy bay.
2. Gốc: 加拿大远征军, tiếng Việt: Lực lượng Viễn chinh Canada. Là tiền thân của Quân đoàn Canada, được thành lập trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất năm 1914.
3. Gốc: 矿物气味, dịch nghĩa: Mùi khoáng chất. Mùi này được ví như mùi đá phiến hoặc đá bên sông, thường thấy trong rượu vang.
Hắn không thấy Louis trong phòng ăn, ở đó chỉ có Hầu tước phu nhân với chiếc đài phát thanh đang bật, phát thanh viên đang nói về trận giao tranh bi thảm ở Dieppe¹ đêm qua khi mà Hải quân Hoàng gia Anh cùng với Lực lượng Viễn chinh Canada² đã đổ bộ vào đất liền nhằm chiếm đóng thành phố cảng này của Pháp. Sự bất thành, số thương vong và tù binh cũng chưa được xác định, chỉ có một điều khá chắc chắn là những người lính Canada ấy có lẽ sẽ không bao giờ quay trở lại nữa. Thế rồi Chuck nhận ra rằng mấy ngày qua hắn chưa từng thấy chiếc đài phát thanh nào trong dinh thự, có lẽ Louis đã giấu nó đi, chặn đứng tin tức về chiến trận bên ngoài những cửa sổ kính bóng loáng này. Hắn đứng ở hành lang lắng nghe thêm một lúc, sau đó rời đi khi phát thanh viên bắt đầu nói về tổng thiệt hại của các tàu đổ bộ.
Trong sảnh Thổ Nhĩ Kỳ cũng không có ai, Chuck nhìn tấm thảm, suy xét một hồi rồi quay trở lại nhà kính, đi vòng qua cây ca cao, mở cửa hông và bước ra vườn. Trời nắng, nhưng không khí vẫn thoang thoảng mùi mưa và bùn lầy, con đường đất hẹp giữa vườn vẫn chưa khôi phục sau trận mưa xối xả hai ngày trước, chỗ thì khô ráo, chỗ vẫn lầy lội. Cho dù chưa hề được huấn luyện truy tìm và cứu nạn bao giờ nhưng rất nhanh Louis vẫn bị hắn phát hiện bởi dấu giày đơn độc cùng với vết lõm sâu do chiếc nạng lưu lại rõ ràng như chiếc biển chỉ dẫn trong bùn ướt.
Cuối cùng hắn tìm thấy Louis ở xích đu. Thứ này được treo trên một cành cây sồi thô ráp, từ những vòng sắt cắm sâu hoắm kia có thể nhận ra nó đã tồn tại ở đây qua nhiều thế hệ. Cây sồi độc chiếm toàn bộ con dốc nhỏ, bên dưới tán cây, nơi nào có bóng râm thì hầu như không có cỏ, như thể chúng nó không phải vô cớ mà bị tuyệt diệt. Cây sồi luôn như vậy, nhìn thì có vẻ tĩnh lặng và thiện lành, nhưng bản chất của nó chẳng khác nào một tên cướp, cố chiếm lấy tất cả nguồn nước và ánh nắng – Chuck không nhớ ai đã nói với mình câu này, có lẽ là ông bô.
Louis ngồi trên xích đu, nắm lấy dây gai xù xì, nhìn vào hư vô. Chuck cũng theo hướng đó nhìn về phía đồng cỏ mênh mông nối tiếp nhau, mặt trời đang lên nhuộm cho màn sương sớm chưa tan hết một màu vàng trong trẻo, khu rừng thưa thớt ẩn hiện đằng xa trông như một bức tranh cắt giấy chưa hoàn thành. Một chú chim lẻ loi vỗ cánh giữa ban mai mịt mù, chẳng chút vội vàng, có lẽ chỉ đang từ từ thử góc gió.
"Khi ông cố của tôi tạo ra chiếc xích đu này, từ nơi đây có thể nhìn thấy cả hồ nước." Louis nói, không chào hỏi hay báo trước gì, "Ấy là một cái hồ nhỏ, "chỉ to bằng chiếc túi" mà lại rất sâu, bờ hồ dốc đứng như một vách đá. Từng có một phu xe chết đuối ở đó vì bị cuốn theo chiếc xe ngựa và rơi xuống nước trong một đêm giông bão. Một thời gian sau, dòng suối nhỏ đổi hướng, hồ nước cũng biến mất theo, nhưng thỉnh thoảng vẫn có người tuyên bố đã nhìn thấy hồn ma của phu xe đang điều khiển toa xe lao xuống hồ nước đã chẳng còn tồn tại kia."
Chuck không biết anh muốn biểu đạt cái gì, đành đút tay vào túi, gật đầu: "Ừ hứ."
"Nói không chừng sau này cũng sẽ có vài ngư dân xui xẻo bắt gặp những chiếc máy bay ma hết lần này đến lần khác từ trên bầu trời xa xăm kia rơi thẳng xuống bên bờ biển."
"Tôi chưa bao giờ nghĩ theo hướng đó." Chuck đáp lời anh một cách thành thật, mà từ "bờ biển" này lại như nhắc nhở hắn, "Này, tôi vừa nghe trên đài-"
"Ở Dieppe, tôi biết, sáng sớm nay vừa nhận được điện báo. Đồi Biggin còn đang kiểm kê số lượng, tình hình cũng không quá khả quan, chúng ta tổn thất sáu máy bay, mất tích hai chiếc." Anh trầm mặc một hồi, lắc đầu, "Vốn dĩ tôi là người sẽ dẫn đội."
Nhưng bọn họ đều hiểu rằng đội do ai dẫn cũng không khác đi là bao, bởi vì phi đội trưởng thường chỉ có quyền chỉ huy ba máy bay, nhiều nhất là sáu chiếc. Chuck hắng giọng, lúng túng trấn an anh một chút, "Đó không phải lỗi của anh-"
"Charles." Louis gọi tên hắn, rất khẽ, nhưng đủ để khiến Chuck ngừng nói ngay lập tức, "Chúng ta nói chuyện khác được không?"
Ngoại trừ chiến tranh, chúng ta còn gì khác để nói đây? Chuck muốn hỏi như vậy, nhưng cuối cùng không nói ra. Tán sồi khổng lồ đung đưa xào xạc trên đỉnh đầu. Louis chạm nhẹ vào tay Chuck rồi nắm cổ tay hắn: "Còn nữa, xin lỗi nhé."
"Vì chuyện gì?"
"Sự khó xử tối qua. Như đã báo trước với anh, mẹ tôi không phải là một người đặc biệt tốt bụng hoà ái."
"Đó là do anh chưa từng gặp qua lão già nhà tôi. Hai người họ có khi lại hợp nhau, tuy là ổng không biết cách chửi rủa thâm sâu có văn hoá, nhưng về bản chất thì cũng như nhau."
"Lần đầu tiên tôi thấy anh nói cũng có lý đấy, Trung sĩ."
"Em lại cợt nhả với tôi, chứng tỏ là em đã quay về như bình thường, không còn là một thi sĩ đa sầu đa cảm nữa. Chào mừng trở lại nhé."
"Em không hề-"
Anh còn chưa kịp nói hết câu, Chuck đã cúi xuống hôn anh, bàn tay nhẹ nhàng giữ đằng sau gáy anh, Louis thì túm chặt cổ áo hắn. Qua đi một lúc lâu, hai người mới thở hổn hển tách nhau ra, theo bản năng mà quan sát xung quanh với nỗi lo trực trào rằng người làm vườn hoặc người gác rừng có thể sẽ nhìn thấy bọn họ. Sương sớm tan đi, ngoại trừ những cây du và bụi cỏ đang rung rinh thì chẳng có bất kỳ thứ gì cử động nào trong vườn hoa hay là trên thảm cỏ.
"Em không hề "đa sầu đa cảm"." Louis tiếp tục bào chữa.
"À, đúng thế, em là người vui tính nhất mà tôi từng gặp, một diễn viên hài thực thụ."
"Còn anh thì đã biết mỉa mai một cách thành thục."
"Tôi có một người thầy giỏi cực kỳ."
Louis thở dài, "Anh có muốn tìm một nơi yên tĩnh thưởng trà không?"
"Vô cùng muốn."
–
Những ngày còn lại của tháng tám, bọn họ không bàn chiến sự nữa, hai người đều vô cùng cẩn trọng mà tránh nói về chủ đề chết chóc đẫm máu bọc dây thép gai này. Vết thương của Louis có chuyển biến tốt, cuối cùng anh cũng có thể quẳng cái nạng đi, mấy hôm đầu thì bám vào nội thất hoặc là cánh tay của Chuck để di chuyển quanh phòng một cách chậm rãi, sau đó từ từ mở rộng phạm vi hoạt động ra thành tản bộ trong vườn và lên xuống cầu thang.
Từ sau khi Hầu tước phu nhân trở về, Louis đã tạm biệt sảnh Thổ Nhĩ Kỳ ấm áp trải thảm dày, hay chính xác hơn là toàn bộ tầng một, đưa Chuck trốn lên gác mái. Điều này có nghĩa là họ phải leo lên bốn tầng lầu, trong đó còn có một đoạn cầu thang gỗ chật hẹp giữ lại dùng khi bảo trì và sửa chữa, lọt thỏm giữa tường đá và tường gỗ, nghe thoang thoảng mùi chuột. Thế nhưng tất cả đều đáng, không gian nhỏ ẩn mình dưới mái nhà riêng tư này ấm cúng, tràn ngập ánh nắng tràn vào từ cửa sổ. Đã rất lâu rồi không có người đặt chân tới đây, bụi bặm phủ đầy tựa như một tầng tuyết mỏng, quá đủ để in lại dấu chân. Mạng nhện thì chằng chịt ở khắp các cạnh của những thùng gỗ được xếp chồng lên nhau, có vài thùng đủ lớn để chứa cả một chiếc đàn dương cầm, một số khác thì nhỏ như hộp trang sức mà không tài nào mở được. Trong góc phòng còn có mấy chiếc rương bằng gỗ mun xỉn màu với các góc nạm đồng, tên chú Albert được viết nguệch ngoạc trên nhãn dán, bên trong chứa các bộ phận rời rạc của xe trượt tuyết, chiếc búa địa chất và bình dưỡng khí. Louis hơi thất vọng, xét riêng việc rương này thuộc về chú Albert thì ít nhất bên trong phải có xác ướp hay gì đó mới đúng.
Những ngày giông bão, dưới chiếc đèn treo kiểu cũ tìm được trong thùng gỗ nào đó, họ làm tình đầy thong thả trên mặt sàn, tiếng sét đánh mưa tuôn át đi những tiếng thở dốc xen lẫn với tiếng gọi khe khẽ. Chuck nằm trên chiếc chăn trộm được từ dưới nhà, nương theo ánh đèn yếu ớt mà ngắm nhìn bờ vai trần trụi cùng với sườn mặt của anh, để rồi khi ánh mắt ấy của hắn bị phát hiện, Louis chỉ nhếch miệng cười rồi hỏi có phải anh có chuyện gì muốn nói không.
Tôi hy vọng chúng ta không phải trở về, Chuck muốn nói vậy, tôi muốn cùng em mãi mãi ở lại căn gác ẩm thấp mốc meo này.
"Không có gì." Giọng hắn vang lên giữa tiếng mưa ầm ầm đập vào cửa sổ.
Louis đưa tay chạm lên vết sẹo nơi khóe mắt Chuck, này là thú vui mới của anh gần đây, cũng là thứ thay thế cho những nụ hôn. Thiếu úy ngồi dậy, rùng mình, mặc quần áo lại. Chuck cũng qua loa tròng quần vào, đến bên cửa sổ, nhìn ra cơn mưa ào ạt ngoài kia đang khiến những ngọn cây xám xịt nghiêng ngả trong gió, mái nhà bằng gỗ cũ kỹ thỉnh thoảng lại kêu kẽo kẹt.
"Charles."
Chuck quay lại nhìn Louis.
"Tuần sau chúng ta sẽ quay lại Đồi Biggin, có thể là thứ tư, muộn nhất là sáng thứ năm, em sẽ gửi một bức điện tín cho Đại úy Milston."
"A." Chuck đờ đẫn phản ứng bằng một từ đơn âm vô nghĩa, hơi lạnh ẩm ướt trên gác mái bỗng trở nên thật rõ ràng khi chúng gặm nhấm làn da trần của hắn, "Được."
Hai người đều hiểu chuyện đó nghĩa là gì, kỳ nghỉ này kết thúc, chúng ta cũng kết thúc. Louis dùng một chiếc đĩa ăn từ kim loại đã rỉ sét làm gương, cài khuy chỉnh tề, thắt lại cà vạt rồi vắt áo khoác lên cánh tay. "Đêm nay gặp nhé? Em sẽ để mở cửa sổ."
"Đêm nay gặp lại."
Chung giường đã là chuyện hàng đêm của cả hai, đôi khi họ làm tình, đôi khi chỉ đơn giản là nằm cạnh nhau. Đêm cuối cùng trước khi rời khỏi dinh thự cũng qua đi như vậy, họ lặng thinh trong bóng tối lắng nghe hơi thở của người kia, biết rõ người ta vẫn chưa ngủ mà chẳng thốt lên lời.
"Tôi có thể hỏi tại sao không?" Khi những tia nắng ban mai xỏ xuyên qua từng kẽ hở của rèm cửa, Chuck mới phá vỡ sự im ắng ấy.
Louis khẽ cựa mình, dựa vào vai hắn: "Chuyện gì?"
"Tại sao anh lại không tới Bộ chỉ huy?"
"Tôi là một người lính, Charles, mà người lính thì sẽ không rời khỏi tiền tuyến." Louis bò dậy, từng đợt không khí lạnh lẽo nhân cơ hội này ùa vào trong chăn, "Dậy nào, chúng ta chuẩn bị phải đi rồi."
Hôm nay là thứ năm. Tháng chín đã tới, tiết trời se se lạnh đã trở nên rõ ràng hơn, mang theo mùi khoáng chất³ hững hờ. Louis lại mặc quân phục, hệt như lần đầu họ gặp nhau – từ ống quần tới vành mũ, khóe miệng hay ánh mắt đều chẳng lưu lại cảm xúc gì. Chuck khởi động chiếc xe tải, tay gác lên cửa kính, quay sang nhìn viên sĩ quan xa lạ kia đang nói lời tạm biệt với mẹ anh. Cuối cùng, Louis xách hành lý lên xe và gật đầu với Chuck.
Chiếc xe tải quân sự chậm rãi lăn bánh trên con đường rải sỏi, hình bóng của dinh thự nhỏ dần trong gương chiếu hậu, cuối cùng khuất hẳn sau rừng cây vàng úa.
Họ trở lại căn cứ Đồi Biggin vào đúng giờ nghỉ trưa, các nhà chứa máy bay và đường băng đều vắng lặng không một bóng người. Louis vừa định mở cửa xe thì Chuck lên tiếng,
"Vậy thôi à? Tôi còn tưởng... Tôi định nói là, chúng ta vẫn chưa tạm biệt nhau."
"Chúng ta phục vụ trong cùng một căn cứ, tại sao phải tạm biệt nhau?"
"Tôi tưởng rằng-"
"Đừng "tưởng rằng" bất cứ điều gì nữa, Trung sĩ." Louis giữ cửa xe, nhìn hắn, "Anh vẫn chưa quên điều kiện chúng ta đã thảo luận chứ?"
"Nhớ rất rõ, thưa chỉ huy."
Louis nhìn hắn nhìn một cái, chỉnh lại mũ rồi đóng cửa xe.
–
Chú thích của người dịch (Translator's Note):
1. Tác giả chú thích: Trận Dieppe (Dieppe Raid) diễn ra ngày 18-19 tháng 8 năm 1942, với sự tham gia của 6000 bộ binh, phần lớn là lính Canada, tỷ lệ thương vong cao tới 60%. Hải quân và Không quân Hoàng gia Anh cũng như là khối Đồng Minh tham gia hỗ trợ, trong đó Hải quân tổn thất 1 Khu trục hạm, 33 Tàu đổ bộ; còn Không quân tổn thất 106 máy bay.
2. Gốc: 加拿大远征军, tiếng Việt: Lực lượng Viễn chinh Canada. Là tiền thân của Quân đoàn Canada, được thành lập trong Chiến tranh Thế giới thứ nhất năm 1914.
3. Gốc: 矿物气味, dịch nghĩa: Mùi khoáng chất. Mùi này được ví như mùi đá phiến hoặc đá bên sông, thường thấy trong rượu vang.