Chương : 24
Tôi mất một lúc mới giải thích xong cho Peeta. Mặt cáo trộm thức ăn trong đống đồ trước khi tôi làm nó nổ tung ra sao, con bé lấy trộm vừa đủ để không làm bọn chúng để ý thế nào, rồi cả chuyện nó đã không thắc mắc về độ an toàn của mấy trái dâu mà chúng tôi chuẩn bị ăn nữa.
“Không biết nó tìm thấy chúng ta bằng cách nào,” Peeta nói. “Chắc là lỗi của tớ, nếu tớ gây ra tiếng động, đúng như cậu nói.”
Đi rầm rập như đàn bò thì có ai là không theo được, nhưng tôi vẫn cố mềm mỏng. “Con bé rất lanh, Peeta ạ. Thật đấy. Cho đến khi cậu qua mặt nó.”
“Tớ không cố ý. Có vẻ như thế không công bằng lắm. Ý tớ là, hai chúng ta có thể cũng sẽ chết nếu con bé không ăn mớ dâu đó trước.” Cậu nghĩ lại. “À không, dĩ nhiên là chúng ta sẽ không ăn. Cậu biết chúng độc mà, phải vậy không?”
Tôi gật đầu. “Nhà tớ gọi chúng là trái tắc-tị.”
“Ngay cả cái tên nghe đã chết người rồi,” cậu nói. “Tớ xin lỗi, Katniss. Tớ thực sự nghĩ chúng là loại cậu từng hái.”
“Không phải xin lỗi đâu. Chỉ là con đường về nhà của chúng ta đã rút ngắn một đoạn, đúng không?” tôi hỏi.
“Tớ sẽ vứt hết mớ còn lại,” Peeta nói. Cậu ấy gom tấm bạt nhựa màu xanh, không để trái nào lọt ra ngoài và định vứt chúng trong rừng.
“Chờ đã!” tôi la lên. Tôi tìm lấy chiếc túi da của thằng bé Quận 1 và nhét một nắm dâu vào trong đó. “Nếu Mặt cáo bị lừa, biết đâu Cato cũng thế. Nếu hắn đang đuổi theo, chúng ta có thể giả vờ đánh rơi túi trái cây và nếu hắn ăn chúng thì...”
“Xin chào Quận 12,” Peeta nói.
“Chính xác,” tôi nói, gài chặt chiếc túi vào dây lưng.
“Lúc này hắn biết chúng ta ở đâu,” Peeta nói. “Nếu ở đâu đó gần đây và đã thấy chiếc phi thuyền, hắn sẽ biết chúng ta đã giết con bé và sẽ đi lùng.”
Peeta nói đúng. Rất có thể đây là cơ hội mà Cato chờ đợi đã lâu. Nhưng cho dù có chạy ngay bây giờ, chúng tôi vẫn cần nướng thịt và Cato sẽ lần theo ngọn lửa để tìm đến.
“Hãy nhóm lửa. Ngay lúc này.” Tôi bắt đầu gom cành lá.
“Cậu sẵn sàng để gặp hắn chưa?” Peeta hỏi.
“Tớ đã sẵn sàng ăn. Tốt hơn chúng ta nên nấu ngay khi có cơ hội. Nếu hắn biết chúng ta ở đây, đằng nào hắn cũng biết rồi. Nhưng hắn cũng biết chúng ta có hai người và có thể đã giết Mặt cáo. Nghĩa là cậu đã bình phục. Và ngọn lửa cho thấy chúng ta không trốn ở đâu hết, chúng ta mời hắn đến đây. Nếu là cậu thì cậu có ra không?” tôi hỏi.
“Có lẽ là không,” cậu nói.
Đánh lửa khá thành thạo nên dù củi ướt, Peeta vẫn dễ dàng nhóm được một đống lửa. Tôi nhanh tay quay mấy con thỏ và chồn, cuộn mớ rễ củ trong lá rồi đem ủ trên than.
Chúng tôi thay phiên nhau, người nhặt lá cây, kẻ canh chừng, nhưng đúng như tôi đoán, Cato không lộ mặt. Khi thức ăn đã chín, tôi gói chúng lại, chỉ phần mỗi đứa một cái chân thỏ để vừa đi vừa ăn.
Tôi muốn đi sâu hơn vào rừng, kiếm một cái cây chắc chắn để nghỉ chân vào ban đêm, nhưng Peeta không đồng ý.
“Tớ không giỏi trèo cây như cậu, Katniss, nhất là với chân cẳng thế này và tớ cũng không ngủ được nếu nằm trên cao mười lăm mét.”
“Sẽ không an toàn nếu ở dưới đất, Peeta,” tôi nói.
“Chúng ta không thể quay lại hang đá sao?” cậu hỏi. “Ở đó gần nguồn nước và dễ đề phòng.”
Tôi thở dài ngao ngán khi nghĩ đến vài giờ đi bộ nữa - hành quân thì đúng hơn - qua khu rừng để trở lại nơi buổi sáng chúng tôi rời khỏi. Nhưng Peeta không đòi hỏi gì nhiều. Cậu đã nghe lời cả ngày hôm nay và nếu là tôi, cậu sẽ không để bạn phải ngủ qua đêm ở trên cây. Tôi chợt nhận ra hôm nay tôi hơi khắt khe với Peeta. Cằn nhằn về tiếng bước chân, rồi hét lớn khi không thấy cậu đâu. Trò tình cảm mà chúng tôi gìn giữ trong hang động đã không còn giữa nơi thanh thiên bạch nhật, dưới cái nắng nóng, và trước hiểm họa về Cato đang treo lơ lửng trên đầu. Haymitch có lẽ vừa nhận ra điều đó. Và cả khán giả…
Tôi vươn tới đặt lên môi cậu một nụ hôn. “Chắc chắn rồi. Quay trở lại hang thôi.”
Trông Peeta có vẻ hài lòng và nhẹ nhõm. “Ừ, như vậy dễ hơn.”
Tôi rút mũi tên khỏi cây sồi, cẩn thận không làm sây sát đầu nhọn. Lúc này những mũi tên là nguồn thức ăn, là sự an toàn và là sự sinh tồn của cả hai.
Tôi ném thêm một nắm củi vào ngọn lửa. Chúng tôi nên giữ khói thêm vài giờ nữa, mặc dù tôi không biết Cato liệu có nghi ngờ hay không. Khi chúng tôi đến được con suối, nước đã rút đáng kể và dòng chảy đã hiền hòa trở lại, vậy nên tôi đề nghị cả hai bước dưới làn nước. Peeta ngoan ngoãn nghe lời và may mắn thay, cậu gây ít tiếng động hơn nhiều so với lúc trên bờ. Dù vậy, con đường cuốc bộ về hang động vẫn còn xa tít tắp, dù đi xuống dốc, dù được tiếp sức bằng thịt thỏ. Cả ngày hôm nay chúng tôi đều kiệt sức vì cuốc bộ và đều chưa được ăn. Tôi giương sẵn cung, vừa đề phòng Cato cũng như để bắn bất cứ con cá nào, nhưng thật lạ lùng, dường như không có sinh vật nào dưới suối.
Khi tới được đích đến, chân chúng tôi đã mỏi nhừ và mặt trời đã xuống mấp mé chân trời. Chúng tôi đong đầy nước vào chai, sau đó leo một con dốc ngắn để đến hang đá. Tuy chưa phải là tiện nghi, nhưng giữa chốn rừng thiêng nước độc này, cái hang là nơi duy nhất mà chúng tôi có thể gọi là nhà. Ở trong hang cũng ấm hơn trên cây, bởi có vách đá ngăn luồng gió Tây đang bắt đầu thổi liên tục. Tôi bày một bữa tối ngon lành, nhưng Peeta đã gật gù từ đời nào. Sau mấy ngày không vận động, chuyến đi săn làm cậu mệt lử. Tôi bảo cậu chui vào túi ngủ và đặt thức ăn bên cạnh khi tỉnh dậy. Peeta thiếp đi ngay sau đó. Tôi kéo vành túi ngủ lên cằm cậu và hôn lên trán, không phải cho khán giả, mà cho tôi. Bởi vì tôi thật sự dễ chịu khi cậu vẫn ở đây, chứ không phải bỏ mạng ở ven suối như tôi đã nghĩ. Và vui vì tôi không phải chạm trán Cato một mình.
Tên Cato tàn bạo, khát máu, kẻ có thể vặn gãy cổ ai đó trong tay mình, kẻ còn mạnh hơn cả Thresh, hẳn đã săn tìm tôi ngay từ đầu. Có lẽ hắn đặc biệt khó chịu từ lúc điểm tập luyện của tôi cao hơn hắn. Nếu là Peeta, có lẽ cậu chỉ đơn giản là nhún vai. Nhưng với Cato, tôi cảm giác điều đó làm hắn mất trí. Đâu cần phải như thế. Tôi nghĩ đến phản ứng lố bịch của hắn khi phát hiện đống đồ đang cháy rụi. Nếu là người khác, hẳn họ sẽ thất vọng, tất nhiên, nhưng hắn thì hoàn toàn khác. Hắn không phát điên mới lạ.
Con dấu của Capitol sáng rực cả bầu trời, tôi thấy hình Mặt cáo hiện lên không trung rồi tắt lịm khỏi thế giới, mãi mãi. Dù Peeta không nói ra, tôi nghĩ hẳn cậu chẳng cảm thấy dễ chịu gì vì đã giết con bé, dù rằng sớm hay muộn việc đó phải đến. Tôi thì không quan tâm đến Mặt cáo cho lắm, nhưng phải nói là tôi phục nó. Nếu như trước đó người ta cho chúng tôi vài thứ gì đó như các bài kiểm tra, chắc chắn nó sẽ là đứa thông minh nhất. Nếu thực sự là chúng tôi có ý định gài bẫy nó, tôi dám cá rằng nó sẽ ngửi thấy mùi cạm bẫy và bỏ qua những quả dâu. Chính sự thiếu hiểu biết của Peeta đã hạ gục nó. Tôi phải mất nhiều thời gian để chắc chắn mình không đánh giá thấp đối thủ, đến mức quên mất rằng việc đánh giá quá cao kẻ thù cũng nguy hiểm không kém.
Nghĩ đến đó, tôi quay lại Cato. Trong khi tôi hiểu ít nhiều về Mặt cáo, biết nó là ai và hành vi thế nào thì Cato lại có vẻ khó đoán hơn. Mạnh mẽ, được huấn luyện bài bản, nhưng hắn có thông minh không? Tôi không biết. Ít ra là không giống Mặt cáo. Và Cato nhất định thiếu khả năng tự chủ trong khi nổi xung, về điểm này thì tôi cũng không khá hơn. Tôi nhớ lại một lần, tôi tức giận đến mức bắn phập mũi tên vào quả táo trong miệng con heo quay. Có thể tôi hiểu Cato nhiều hơn tôi nghĩ.
Dù rất mệt, tâm trí tôi vẫn cảnh giác cao độ. Vậy nên tôi vẫn để Peeta ngủ, mặc cho giờ đổi phiên gác đã qua từ lâu. Vào lúc tôi lay cậu dậy, buổi sớm mờ sương đã bắt đầu. Peeta nhìn xung quanh, hốt hoảng. “Tớ đã ngủ cả đêm qua. Thật không công bằng, Katniss, lẽ ra cậu phải đánh thức tớ dậy.”
Tôi vươn vai và chui tọt vào trong túi ngủ. “Bây giờ tớ ngủ đây. Đánh thức tớ dậy nếu có chuyện gì hay ho.”
Rõ ràng chẳng xảy ra chuyện gì, vì khi mở mắt tỉnh dậy, tôi đã thấy ánh nắng nóng rực của buổi chiều le lói qua những khe đá. “Có dấu hiệu gì của anh bạn chúng ta không?” tôi hỏi.
Peeta lắc đầu. “Không, hắn ta vẫn biệt tăm một cách đáng ngại.”
“Cậu nghĩ còn bao lâu nữa thì Ban Tổ chức sẽ quây chúng ta và Cato lại?” tôi hỏi.
“Mặt cáo mới chết hôm qua nên vẫn còn dư dả thời gian để khán giả đặt cược và thấy chán. Tớ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào,” Peeta nói.
“Phải, tớ có cảm giác chính là hôm nay,” tôi nói. Tôi ngồi thẳng lưng và nhìn ra khoảng đất im ắng bên ngoài. “Không biết họ sẽ làm gì.”
Peeta im lặng. Thật sự là không có câu trả lời nào hợp lý vào lúc này.
“Ừ, cho đến lúc đó, không có lý gì chúng ta lại bỏ phí một ngày đi săn. Nhưng bây giờ có lẽ nên ăn càng nhiều càng tốt phòng khi gặp rắc rối,” tôi nói.
Peeta sắp lại đồ đạc trong khi tôi bày một bữa thịnh soạn. Phần thịt thỏ còn lại, rễ củ, rau rừng và bánh mì được phết miếng pho mát cuối cùng. Tôi chỉ để dành thịt chồn và mấy quả táo.
Khi cả hai ăn xong, tất cả những gì còn lại chỉ là một đống xương thỏ. Tay tôi nhơ nhớp mỡ, đúng là tôi càng ngày càng bẩn. Tuy rằng ở khu Vỉa than, không phải ngày nào bọn tôi cũng tắm, nhưng khi đó tôi vẫn còn sạch chán so với dạo gần đây. Ngoại trừ đôi chân vừa lội suối, cả người tôi phủ một lớp ghét dày.
Việc rời khỏi cái hang lần này như một cuộc chia tay. Không hiểu sao, tôi nghĩ mình sẽ không trải qua đêm nào nữa ở Đấu trường. Bằng cách này hay cách khác, dù bỏ mạng hay sống sót trở về, tôi có cảm giác mình sẽ chấm dứt mọi thứ vào hôm nay. Tôi vỗ vào vách đá chào từ biệt rồi cùng Peeta xuống suối rửa ráy. Nghĩ đến dòng nước mát lạnh, người tôi cảm thấy ngứa ngáy. Có lẽ tôi nên gội đầu và vắt khô tóc. Không biết chúng tôi có nên giặt sơ qua quần áo ở con suối này hay không. Từng là suối thì đúng hơn. Giờ đây chỉ còn lại đáy cạn trơ trọi. Tôi chạm tay xuống đáy, cảm nhận điều gì đang diễn ra.
“Không còn một vũng nước. Hẳn là họ đã rút cạn nước trong lúc chúng ta ngủ,” tôi nói. Nỗi ám ảnh về cảnh đôi môi nứt nẻ, cơ thể tàn tạ và đầu óc quay cuồng của lần chết khát trước hiện về trong tâm trí. Tuy da dẻ vẫn còn mịn và mấy chai nước vẫn còn đầy nhưng với hai miệng uống và trời nắng nóng thế này, chẳng bao lâu chúng tôi sẽ cạn nước.
“Cái hồ,” Peeta nói. “Đó là nơi họ muốn chúng ta đến.”
“Biết đâu mấy vũng nước vẫn còn,” tôi hy vọng.
“Chúng ta có thể kiểm tra,” cậu nói, nhưng thực ra chỉ đùa cợt tôi. Tôi đùa cợt với chính mình vì biết chắc sẽ chẳng còn lại gì ở vũng nước, nơi tôi từng ngâm cái chân đau. Sẽ chỉ còn một hố đất bụi bặm, trống hoác.
“Cậu nói đúng. Họ hướng chúng ta đến cái hồ,” tôi nói. Nơi không có gì che khuất. Nơi họ có thể theo dõi trận chiến đẫm máu mà không bị mất tầm nhìn. “Cậu muốn đến thẳng đó hay đợi đến khi cạn sạch nước?”
“Đi ngay bây giờ, khi chúng ta vẫn còn thức ăn và có thể nghỉ dần dần. Đến đó và chấm dứt chuyện này,” cậu nói.
Tôi gật đầu. Buồn cười thật. Tôi cảm giác như thể đây là ngày đầu tiên của Đấu trường. Tôi như trở về vị trí của mình. Hai mươi mốt vật tế đã chết, nhưng tôi vẫn phải giết Cato. Và liệu có đúng, rằng hắn mới luôn là kẻ cần phải giết? Xem ra những đấu thủ còn lại chỉ là những nhân vật phụ, gây sao nhãng, để rồi cuối cùng chúng tôi vẫn phải trở về cuộc đối đầu thực sự của Đấu trường. Giữa Cato và tôi.
Nhưng không, vẫn còn một chàng trai bên cạnh tôi. Cậu khoác tay qua vai tôi.
“Hai chọi một. Chắc cũng dễ như ăn bánh,” Peeta nói.
“Lần tới chúng ta ăn bánh, sẽ là ở Capitol,” tôi đáp.
“Chắc chắn rồi,” cậu nói.
Chúng tôi đứng đó một lúc, ôm chặt lấy nhau, cảm nhận hơi thở của nhau, của nắng vàng, của tiếng lá dưới chân lạo xạo. Rồi không ai bảo ai, chúng tôi tách ra và tiến thẳng đến hồ.
Lúc này tôi không còn để ý, rằng bước chân của Peeta đang làm bầy chuột chũi chạy nhốn nháo, hay làm đàn chim dáo dác bay. Đằng nào chúng tôi cũng phải đánh với Cato, nên có đánh ở đâu cũng thế mà thôi. Nhưng có lẽ tôi không có lựa chọn. Nếu Ban Tổ chức muốn trận đấu diễn ra ở bãi đất trống thì chúng tôi sẽ phải đến đó.
Chúng tôi dừng chân một lát, dưới bóng cây nơi tôi bị kẹt lại lúc trước. Tôi nhận ra sau khi thấy xác tổ ong nằm trơ trọi, dập nát sau trận mưa lớn dưới cái nắng như thiêu đốt. Khi tôi chạm mũi giày vào, nó vỡ ra từng mảng đất, nhanh chóng bị một cơn gió nhẹ thổi bay. Tôi không thể không nhìn lên cái cây nơi Rue náu mình, chờ cơ hội cứu mạng tôi. Bầy ong bắt-là-cắt. Cơ thể sưng húp của Glimmer. Cơn ảo giác đáng sợ…
“Chúng ta đi thôi,” tôi nói, muốn trốn thoát sự u ám bủa vây nơi này. Peeta không phản đối.
Do hôm nay khởi hành trễ, khi chúng tôi đến bãi đất thì trời đã gần tối. Không có dấu hiệu của Cato. Không có dấu hiệu của thứ gì ngoài ánh vàng lấp lánh của Cornucopia dưới ánh nắng xiên. Đề phòng Cato lặp lại trò của Mặt cáo, chúng tôi đi một vòng Cornucopia để chắc chắn không có ai. Rồi chúng tôi tự động sang hồ và bơm đầy nước, như một việc phải làm.
Tôi cau mày khi thấy mặt trời đang lặn dần. “Chúng ta không muốn chiến đấu với hắn trong đêm. Bởi lẽ chỉ có một chiếc kính.”
Peeta cẩn thận nhỏ vài giọt i-ốt vào nước. “Có thể hắn đang chờ đợi điều đó. Cậu muốn làm gì? Trở lại hang ư?”
“Hoặc là thế hoặc là tìm một cây nào đó. Nhưng hãy đợi hắn thêm nửa tiếng. Rồi chúng ta sẽ tìm một nơi để ẩn náu,” tôi đáp.
Cả hai ngồi bên hồ nước, nhìn toàn cảnh xung quanh.
Bây giờ không có chỗ nào để trốn. Những con chim húng nhại đang chao lượn trên hàng cây ở bìa rừng, chuyền tới chuyền lui những giai điệu như chuyền những quả bóng sặc sỡ. Tôi cất tiếng, hát đoạn nhạc bốn nốt của Rue. Tôi thấy chúng im bặt, tò mò trước giọng hát của tôi, chờ đợi. Tôi lặp lại giai điệu ấy trong khoảng không vắng lặng. Con húng nhại đầu tiên bắt chước, rồi đến con thứ hai. Rồi toàn bộ khu rừng rộn vang tiếng hót.
“Cậu hát giống cha cậu,” Peeta nói.
Tôi chạm tay vào chiếc ghim trên áo. “Đó là bài hát của Rue,” tôi nói. “Tớ nghĩ chúng nhớ bài hát đó.”
Giai điệu cất lên, tôi nhận ra sự kỳ diệu của tiếng hát.
Khi những nốt nhạc lồng vào nhau, chúng tạo thành bè, tạo thành một âm hưởng du dương mà cõi phàm không thể có. Cũng bản nhạc đó, Rue đã cất tiếng hát để những người thợ làm vườn ở Quận 11 biết giờ tan việc để trở về nhà mỗi tối. Tôi tự hỏi, giờ đây ai sẽ là người xướng lên giai điệu ấy, sau khi con bé chết?
Tôi nhắm mắt trong chốc lát và lắng tai nghe, say sưa với vẻ đẹp của bài hát. Bất chợt tiếng hót bị gián đoạn. m thanh bị ngắt quãng, những tiếng bặt im dở dang, gãy khúc. Giai điệu bị lẫn vào những nốt nghịch. Bầy húng nhại réo lên trong cơn hốt hoảng.
Chúng tôi đứng đó, Peeta cầm dao, tôi vào thế bắn trong khi Cato đang chạy xộc ra khỏi bụi cây và hùng hổ lao đến. Hắn không cầm lao. Thật sự là hắn đang chạy tay không đến chỗ chúng tôi. Tôi bắn phát đầu tiên ngay ngực hắn và mũi tên bật ra một cách khó hiểu.
“Hình như hắn mặc áo giáp!” tôi la lớn với Peeta.
Nhưng đã quá trễ bởi Cato đã đến gần. Tôi thủ thế, nhưng Cato vẫn chạy như một quả tên lửa, không có vẻ gì muốn dừng lại. Tôi đoán là hắn đã chạy thục mạng một quãng dài, qua cách thở hồng hộc, qua khuôn mặt đỏ gay và nhễ nhại mồ hôi của hắn. Nhưng không phải đến chỗ chúng tôi. Mà để thoát khỏi thứ gì đó. Nhưng đó là cái gì?
Tôi đang nhìn xung quanh thì có tiếng một sinh vật đầu tiên đã nhảy vào bãi đất. Khi tôi quay lại, đã thấy nửa tá con tiếp theo. Rồi tôi thất thần chạy theo Cato, không còn biết trời trăng gì nữa, chỉ còn biết thoát thân.
“Không biết nó tìm thấy chúng ta bằng cách nào,” Peeta nói. “Chắc là lỗi của tớ, nếu tớ gây ra tiếng động, đúng như cậu nói.”
Đi rầm rập như đàn bò thì có ai là không theo được, nhưng tôi vẫn cố mềm mỏng. “Con bé rất lanh, Peeta ạ. Thật đấy. Cho đến khi cậu qua mặt nó.”
“Tớ không cố ý. Có vẻ như thế không công bằng lắm. Ý tớ là, hai chúng ta có thể cũng sẽ chết nếu con bé không ăn mớ dâu đó trước.” Cậu nghĩ lại. “À không, dĩ nhiên là chúng ta sẽ không ăn. Cậu biết chúng độc mà, phải vậy không?”
Tôi gật đầu. “Nhà tớ gọi chúng là trái tắc-tị.”
“Ngay cả cái tên nghe đã chết người rồi,” cậu nói. “Tớ xin lỗi, Katniss. Tớ thực sự nghĩ chúng là loại cậu từng hái.”
“Không phải xin lỗi đâu. Chỉ là con đường về nhà của chúng ta đã rút ngắn một đoạn, đúng không?” tôi hỏi.
“Tớ sẽ vứt hết mớ còn lại,” Peeta nói. Cậu ấy gom tấm bạt nhựa màu xanh, không để trái nào lọt ra ngoài và định vứt chúng trong rừng.
“Chờ đã!” tôi la lên. Tôi tìm lấy chiếc túi da của thằng bé Quận 1 và nhét một nắm dâu vào trong đó. “Nếu Mặt cáo bị lừa, biết đâu Cato cũng thế. Nếu hắn đang đuổi theo, chúng ta có thể giả vờ đánh rơi túi trái cây và nếu hắn ăn chúng thì...”
“Xin chào Quận 12,” Peeta nói.
“Chính xác,” tôi nói, gài chặt chiếc túi vào dây lưng.
“Lúc này hắn biết chúng ta ở đâu,” Peeta nói. “Nếu ở đâu đó gần đây và đã thấy chiếc phi thuyền, hắn sẽ biết chúng ta đã giết con bé và sẽ đi lùng.”
Peeta nói đúng. Rất có thể đây là cơ hội mà Cato chờ đợi đã lâu. Nhưng cho dù có chạy ngay bây giờ, chúng tôi vẫn cần nướng thịt và Cato sẽ lần theo ngọn lửa để tìm đến.
“Hãy nhóm lửa. Ngay lúc này.” Tôi bắt đầu gom cành lá.
“Cậu sẵn sàng để gặp hắn chưa?” Peeta hỏi.
“Tớ đã sẵn sàng ăn. Tốt hơn chúng ta nên nấu ngay khi có cơ hội. Nếu hắn biết chúng ta ở đây, đằng nào hắn cũng biết rồi. Nhưng hắn cũng biết chúng ta có hai người và có thể đã giết Mặt cáo. Nghĩa là cậu đã bình phục. Và ngọn lửa cho thấy chúng ta không trốn ở đâu hết, chúng ta mời hắn đến đây. Nếu là cậu thì cậu có ra không?” tôi hỏi.
“Có lẽ là không,” cậu nói.
Đánh lửa khá thành thạo nên dù củi ướt, Peeta vẫn dễ dàng nhóm được một đống lửa. Tôi nhanh tay quay mấy con thỏ và chồn, cuộn mớ rễ củ trong lá rồi đem ủ trên than.
Chúng tôi thay phiên nhau, người nhặt lá cây, kẻ canh chừng, nhưng đúng như tôi đoán, Cato không lộ mặt. Khi thức ăn đã chín, tôi gói chúng lại, chỉ phần mỗi đứa một cái chân thỏ để vừa đi vừa ăn.
Tôi muốn đi sâu hơn vào rừng, kiếm một cái cây chắc chắn để nghỉ chân vào ban đêm, nhưng Peeta không đồng ý.
“Tớ không giỏi trèo cây như cậu, Katniss, nhất là với chân cẳng thế này và tớ cũng không ngủ được nếu nằm trên cao mười lăm mét.”
“Sẽ không an toàn nếu ở dưới đất, Peeta,” tôi nói.
“Chúng ta không thể quay lại hang đá sao?” cậu hỏi. “Ở đó gần nguồn nước và dễ đề phòng.”
Tôi thở dài ngao ngán khi nghĩ đến vài giờ đi bộ nữa - hành quân thì đúng hơn - qua khu rừng để trở lại nơi buổi sáng chúng tôi rời khỏi. Nhưng Peeta không đòi hỏi gì nhiều. Cậu đã nghe lời cả ngày hôm nay và nếu là tôi, cậu sẽ không để bạn phải ngủ qua đêm ở trên cây. Tôi chợt nhận ra hôm nay tôi hơi khắt khe với Peeta. Cằn nhằn về tiếng bước chân, rồi hét lớn khi không thấy cậu đâu. Trò tình cảm mà chúng tôi gìn giữ trong hang động đã không còn giữa nơi thanh thiên bạch nhật, dưới cái nắng nóng, và trước hiểm họa về Cato đang treo lơ lửng trên đầu. Haymitch có lẽ vừa nhận ra điều đó. Và cả khán giả…
Tôi vươn tới đặt lên môi cậu một nụ hôn. “Chắc chắn rồi. Quay trở lại hang thôi.”
Trông Peeta có vẻ hài lòng và nhẹ nhõm. “Ừ, như vậy dễ hơn.”
Tôi rút mũi tên khỏi cây sồi, cẩn thận không làm sây sát đầu nhọn. Lúc này những mũi tên là nguồn thức ăn, là sự an toàn và là sự sinh tồn của cả hai.
Tôi ném thêm một nắm củi vào ngọn lửa. Chúng tôi nên giữ khói thêm vài giờ nữa, mặc dù tôi không biết Cato liệu có nghi ngờ hay không. Khi chúng tôi đến được con suối, nước đã rút đáng kể và dòng chảy đã hiền hòa trở lại, vậy nên tôi đề nghị cả hai bước dưới làn nước. Peeta ngoan ngoãn nghe lời và may mắn thay, cậu gây ít tiếng động hơn nhiều so với lúc trên bờ. Dù vậy, con đường cuốc bộ về hang động vẫn còn xa tít tắp, dù đi xuống dốc, dù được tiếp sức bằng thịt thỏ. Cả ngày hôm nay chúng tôi đều kiệt sức vì cuốc bộ và đều chưa được ăn. Tôi giương sẵn cung, vừa đề phòng Cato cũng như để bắn bất cứ con cá nào, nhưng thật lạ lùng, dường như không có sinh vật nào dưới suối.
Khi tới được đích đến, chân chúng tôi đã mỏi nhừ và mặt trời đã xuống mấp mé chân trời. Chúng tôi đong đầy nước vào chai, sau đó leo một con dốc ngắn để đến hang đá. Tuy chưa phải là tiện nghi, nhưng giữa chốn rừng thiêng nước độc này, cái hang là nơi duy nhất mà chúng tôi có thể gọi là nhà. Ở trong hang cũng ấm hơn trên cây, bởi có vách đá ngăn luồng gió Tây đang bắt đầu thổi liên tục. Tôi bày một bữa tối ngon lành, nhưng Peeta đã gật gù từ đời nào. Sau mấy ngày không vận động, chuyến đi săn làm cậu mệt lử. Tôi bảo cậu chui vào túi ngủ và đặt thức ăn bên cạnh khi tỉnh dậy. Peeta thiếp đi ngay sau đó. Tôi kéo vành túi ngủ lên cằm cậu và hôn lên trán, không phải cho khán giả, mà cho tôi. Bởi vì tôi thật sự dễ chịu khi cậu vẫn ở đây, chứ không phải bỏ mạng ở ven suối như tôi đã nghĩ. Và vui vì tôi không phải chạm trán Cato một mình.
Tên Cato tàn bạo, khát máu, kẻ có thể vặn gãy cổ ai đó trong tay mình, kẻ còn mạnh hơn cả Thresh, hẳn đã săn tìm tôi ngay từ đầu. Có lẽ hắn đặc biệt khó chịu từ lúc điểm tập luyện của tôi cao hơn hắn. Nếu là Peeta, có lẽ cậu chỉ đơn giản là nhún vai. Nhưng với Cato, tôi cảm giác điều đó làm hắn mất trí. Đâu cần phải như thế. Tôi nghĩ đến phản ứng lố bịch của hắn khi phát hiện đống đồ đang cháy rụi. Nếu là người khác, hẳn họ sẽ thất vọng, tất nhiên, nhưng hắn thì hoàn toàn khác. Hắn không phát điên mới lạ.
Con dấu của Capitol sáng rực cả bầu trời, tôi thấy hình Mặt cáo hiện lên không trung rồi tắt lịm khỏi thế giới, mãi mãi. Dù Peeta không nói ra, tôi nghĩ hẳn cậu chẳng cảm thấy dễ chịu gì vì đã giết con bé, dù rằng sớm hay muộn việc đó phải đến. Tôi thì không quan tâm đến Mặt cáo cho lắm, nhưng phải nói là tôi phục nó. Nếu như trước đó người ta cho chúng tôi vài thứ gì đó như các bài kiểm tra, chắc chắn nó sẽ là đứa thông minh nhất. Nếu thực sự là chúng tôi có ý định gài bẫy nó, tôi dám cá rằng nó sẽ ngửi thấy mùi cạm bẫy và bỏ qua những quả dâu. Chính sự thiếu hiểu biết của Peeta đã hạ gục nó. Tôi phải mất nhiều thời gian để chắc chắn mình không đánh giá thấp đối thủ, đến mức quên mất rằng việc đánh giá quá cao kẻ thù cũng nguy hiểm không kém.
Nghĩ đến đó, tôi quay lại Cato. Trong khi tôi hiểu ít nhiều về Mặt cáo, biết nó là ai và hành vi thế nào thì Cato lại có vẻ khó đoán hơn. Mạnh mẽ, được huấn luyện bài bản, nhưng hắn có thông minh không? Tôi không biết. Ít ra là không giống Mặt cáo. Và Cato nhất định thiếu khả năng tự chủ trong khi nổi xung, về điểm này thì tôi cũng không khá hơn. Tôi nhớ lại một lần, tôi tức giận đến mức bắn phập mũi tên vào quả táo trong miệng con heo quay. Có thể tôi hiểu Cato nhiều hơn tôi nghĩ.
Dù rất mệt, tâm trí tôi vẫn cảnh giác cao độ. Vậy nên tôi vẫn để Peeta ngủ, mặc cho giờ đổi phiên gác đã qua từ lâu. Vào lúc tôi lay cậu dậy, buổi sớm mờ sương đã bắt đầu. Peeta nhìn xung quanh, hốt hoảng. “Tớ đã ngủ cả đêm qua. Thật không công bằng, Katniss, lẽ ra cậu phải đánh thức tớ dậy.”
Tôi vươn vai và chui tọt vào trong túi ngủ. “Bây giờ tớ ngủ đây. Đánh thức tớ dậy nếu có chuyện gì hay ho.”
Rõ ràng chẳng xảy ra chuyện gì, vì khi mở mắt tỉnh dậy, tôi đã thấy ánh nắng nóng rực của buổi chiều le lói qua những khe đá. “Có dấu hiệu gì của anh bạn chúng ta không?” tôi hỏi.
Peeta lắc đầu. “Không, hắn ta vẫn biệt tăm một cách đáng ngại.”
“Cậu nghĩ còn bao lâu nữa thì Ban Tổ chức sẽ quây chúng ta và Cato lại?” tôi hỏi.
“Mặt cáo mới chết hôm qua nên vẫn còn dư dả thời gian để khán giả đặt cược và thấy chán. Tớ nghĩ chuyện đó có thể xảy ra bất cứ lúc nào,” Peeta nói.
“Phải, tớ có cảm giác chính là hôm nay,” tôi nói. Tôi ngồi thẳng lưng và nhìn ra khoảng đất im ắng bên ngoài. “Không biết họ sẽ làm gì.”
Peeta im lặng. Thật sự là không có câu trả lời nào hợp lý vào lúc này.
“Ừ, cho đến lúc đó, không có lý gì chúng ta lại bỏ phí một ngày đi săn. Nhưng bây giờ có lẽ nên ăn càng nhiều càng tốt phòng khi gặp rắc rối,” tôi nói.
Peeta sắp lại đồ đạc trong khi tôi bày một bữa thịnh soạn. Phần thịt thỏ còn lại, rễ củ, rau rừng và bánh mì được phết miếng pho mát cuối cùng. Tôi chỉ để dành thịt chồn và mấy quả táo.
Khi cả hai ăn xong, tất cả những gì còn lại chỉ là một đống xương thỏ. Tay tôi nhơ nhớp mỡ, đúng là tôi càng ngày càng bẩn. Tuy rằng ở khu Vỉa than, không phải ngày nào bọn tôi cũng tắm, nhưng khi đó tôi vẫn còn sạch chán so với dạo gần đây. Ngoại trừ đôi chân vừa lội suối, cả người tôi phủ một lớp ghét dày.
Việc rời khỏi cái hang lần này như một cuộc chia tay. Không hiểu sao, tôi nghĩ mình sẽ không trải qua đêm nào nữa ở Đấu trường. Bằng cách này hay cách khác, dù bỏ mạng hay sống sót trở về, tôi có cảm giác mình sẽ chấm dứt mọi thứ vào hôm nay. Tôi vỗ vào vách đá chào từ biệt rồi cùng Peeta xuống suối rửa ráy. Nghĩ đến dòng nước mát lạnh, người tôi cảm thấy ngứa ngáy. Có lẽ tôi nên gội đầu và vắt khô tóc. Không biết chúng tôi có nên giặt sơ qua quần áo ở con suối này hay không. Từng là suối thì đúng hơn. Giờ đây chỉ còn lại đáy cạn trơ trọi. Tôi chạm tay xuống đáy, cảm nhận điều gì đang diễn ra.
“Không còn một vũng nước. Hẳn là họ đã rút cạn nước trong lúc chúng ta ngủ,” tôi nói. Nỗi ám ảnh về cảnh đôi môi nứt nẻ, cơ thể tàn tạ và đầu óc quay cuồng của lần chết khát trước hiện về trong tâm trí. Tuy da dẻ vẫn còn mịn và mấy chai nước vẫn còn đầy nhưng với hai miệng uống và trời nắng nóng thế này, chẳng bao lâu chúng tôi sẽ cạn nước.
“Cái hồ,” Peeta nói. “Đó là nơi họ muốn chúng ta đến.”
“Biết đâu mấy vũng nước vẫn còn,” tôi hy vọng.
“Chúng ta có thể kiểm tra,” cậu nói, nhưng thực ra chỉ đùa cợt tôi. Tôi đùa cợt với chính mình vì biết chắc sẽ chẳng còn lại gì ở vũng nước, nơi tôi từng ngâm cái chân đau. Sẽ chỉ còn một hố đất bụi bặm, trống hoác.
“Cậu nói đúng. Họ hướng chúng ta đến cái hồ,” tôi nói. Nơi không có gì che khuất. Nơi họ có thể theo dõi trận chiến đẫm máu mà không bị mất tầm nhìn. “Cậu muốn đến thẳng đó hay đợi đến khi cạn sạch nước?”
“Đi ngay bây giờ, khi chúng ta vẫn còn thức ăn và có thể nghỉ dần dần. Đến đó và chấm dứt chuyện này,” cậu nói.
Tôi gật đầu. Buồn cười thật. Tôi cảm giác như thể đây là ngày đầu tiên của Đấu trường. Tôi như trở về vị trí của mình. Hai mươi mốt vật tế đã chết, nhưng tôi vẫn phải giết Cato. Và liệu có đúng, rằng hắn mới luôn là kẻ cần phải giết? Xem ra những đấu thủ còn lại chỉ là những nhân vật phụ, gây sao nhãng, để rồi cuối cùng chúng tôi vẫn phải trở về cuộc đối đầu thực sự của Đấu trường. Giữa Cato và tôi.
Nhưng không, vẫn còn một chàng trai bên cạnh tôi. Cậu khoác tay qua vai tôi.
“Hai chọi một. Chắc cũng dễ như ăn bánh,” Peeta nói.
“Lần tới chúng ta ăn bánh, sẽ là ở Capitol,” tôi đáp.
“Chắc chắn rồi,” cậu nói.
Chúng tôi đứng đó một lúc, ôm chặt lấy nhau, cảm nhận hơi thở của nhau, của nắng vàng, của tiếng lá dưới chân lạo xạo. Rồi không ai bảo ai, chúng tôi tách ra và tiến thẳng đến hồ.
Lúc này tôi không còn để ý, rằng bước chân của Peeta đang làm bầy chuột chũi chạy nhốn nháo, hay làm đàn chim dáo dác bay. Đằng nào chúng tôi cũng phải đánh với Cato, nên có đánh ở đâu cũng thế mà thôi. Nhưng có lẽ tôi không có lựa chọn. Nếu Ban Tổ chức muốn trận đấu diễn ra ở bãi đất trống thì chúng tôi sẽ phải đến đó.
Chúng tôi dừng chân một lát, dưới bóng cây nơi tôi bị kẹt lại lúc trước. Tôi nhận ra sau khi thấy xác tổ ong nằm trơ trọi, dập nát sau trận mưa lớn dưới cái nắng như thiêu đốt. Khi tôi chạm mũi giày vào, nó vỡ ra từng mảng đất, nhanh chóng bị một cơn gió nhẹ thổi bay. Tôi không thể không nhìn lên cái cây nơi Rue náu mình, chờ cơ hội cứu mạng tôi. Bầy ong bắt-là-cắt. Cơ thể sưng húp của Glimmer. Cơn ảo giác đáng sợ…
“Chúng ta đi thôi,” tôi nói, muốn trốn thoát sự u ám bủa vây nơi này. Peeta không phản đối.
Do hôm nay khởi hành trễ, khi chúng tôi đến bãi đất thì trời đã gần tối. Không có dấu hiệu của Cato. Không có dấu hiệu của thứ gì ngoài ánh vàng lấp lánh của Cornucopia dưới ánh nắng xiên. Đề phòng Cato lặp lại trò của Mặt cáo, chúng tôi đi một vòng Cornucopia để chắc chắn không có ai. Rồi chúng tôi tự động sang hồ và bơm đầy nước, như một việc phải làm.
Tôi cau mày khi thấy mặt trời đang lặn dần. “Chúng ta không muốn chiến đấu với hắn trong đêm. Bởi lẽ chỉ có một chiếc kính.”
Peeta cẩn thận nhỏ vài giọt i-ốt vào nước. “Có thể hắn đang chờ đợi điều đó. Cậu muốn làm gì? Trở lại hang ư?”
“Hoặc là thế hoặc là tìm một cây nào đó. Nhưng hãy đợi hắn thêm nửa tiếng. Rồi chúng ta sẽ tìm một nơi để ẩn náu,” tôi đáp.
Cả hai ngồi bên hồ nước, nhìn toàn cảnh xung quanh.
Bây giờ không có chỗ nào để trốn. Những con chim húng nhại đang chao lượn trên hàng cây ở bìa rừng, chuyền tới chuyền lui những giai điệu như chuyền những quả bóng sặc sỡ. Tôi cất tiếng, hát đoạn nhạc bốn nốt của Rue. Tôi thấy chúng im bặt, tò mò trước giọng hát của tôi, chờ đợi. Tôi lặp lại giai điệu ấy trong khoảng không vắng lặng. Con húng nhại đầu tiên bắt chước, rồi đến con thứ hai. Rồi toàn bộ khu rừng rộn vang tiếng hót.
“Cậu hát giống cha cậu,” Peeta nói.
Tôi chạm tay vào chiếc ghim trên áo. “Đó là bài hát của Rue,” tôi nói. “Tớ nghĩ chúng nhớ bài hát đó.”
Giai điệu cất lên, tôi nhận ra sự kỳ diệu của tiếng hát.
Khi những nốt nhạc lồng vào nhau, chúng tạo thành bè, tạo thành một âm hưởng du dương mà cõi phàm không thể có. Cũng bản nhạc đó, Rue đã cất tiếng hát để những người thợ làm vườn ở Quận 11 biết giờ tan việc để trở về nhà mỗi tối. Tôi tự hỏi, giờ đây ai sẽ là người xướng lên giai điệu ấy, sau khi con bé chết?
Tôi nhắm mắt trong chốc lát và lắng tai nghe, say sưa với vẻ đẹp của bài hát. Bất chợt tiếng hót bị gián đoạn. m thanh bị ngắt quãng, những tiếng bặt im dở dang, gãy khúc. Giai điệu bị lẫn vào những nốt nghịch. Bầy húng nhại réo lên trong cơn hốt hoảng.
Chúng tôi đứng đó, Peeta cầm dao, tôi vào thế bắn trong khi Cato đang chạy xộc ra khỏi bụi cây và hùng hổ lao đến. Hắn không cầm lao. Thật sự là hắn đang chạy tay không đến chỗ chúng tôi. Tôi bắn phát đầu tiên ngay ngực hắn và mũi tên bật ra một cách khó hiểu.
“Hình như hắn mặc áo giáp!” tôi la lớn với Peeta.
Nhưng đã quá trễ bởi Cato đã đến gần. Tôi thủ thế, nhưng Cato vẫn chạy như một quả tên lửa, không có vẻ gì muốn dừng lại. Tôi đoán là hắn đã chạy thục mạng một quãng dài, qua cách thở hồng hộc, qua khuôn mặt đỏ gay và nhễ nhại mồ hôi của hắn. Nhưng không phải đến chỗ chúng tôi. Mà để thoát khỏi thứ gì đó. Nhưng đó là cái gì?
Tôi đang nhìn xung quanh thì có tiếng một sinh vật đầu tiên đã nhảy vào bãi đất. Khi tôi quay lại, đã thấy nửa tá con tiếp theo. Rồi tôi thất thần chạy theo Cato, không còn biết trời trăng gì nữa, chỉ còn biết thoát thân.