Chương : 160
Lục Nhi ôm thật chặt lấy đứa con gái mới vừa đầy một tuổi của nàng, nghe thân thể nho nhỏ của đứa bé đang cố hết sức hô hấp. Phần da dẻ mềm mại lộ ra bên ngoài nóng bỏng người, chẳng khác nào nhiệt độ khi đã bị phơi dưới mặt trời chói chang tận mấy canh giờ.
Nhưng Lục Nhi lại không hề cảm thấy con mình đang nóng bỏng tay, bởi vì chính nàng cũng đang phát sốt. Môi nàng khô nứt nẻ rách da, đôi mắt lại vằn vện những sợi tơ máu đến mức sắp không nhìn thấy tròng trắng đâu, giống như giữa hai hố máu lại điểm hai chấm đen, trông đáng sợ như là ác quỷ. Khóe miệng của nàng vẫn còn vương vết máu trào ra từ cơn ho lần trước, làn da lộ ra bên ngoài phủ kín những vết xanh đen, tựa như nấm mốc mục nát mốc meo.
Ngôi nhà xưa kia của nàng giờ chỉ còn lại là bốn bức tường đất xập xệ lụp xụp chống đỡ mái nhà cỏ lau đã sụp mất một nửa trên đỉnh đầu. Chồng nàng, cha mẹ chồng nàng, cha mẹ đẻ nàng, anh cả của nàng, cô em chồng, hai đứa bé con sinh đôi của nhà cô em chồng, tất cả đều đã chết, chết rồi lại không có được một đám tang đường hoàng, mấy người đàn ông dùng vải rách che lại miệng mũi quấn thi thể của bọn họ vào trong tấm chiếu cói, rồi ném vào một cái hố to bên ngoài làng thiêu cháy. Mùi cháy khét khi thịt thối bị thiêu chín rõ ràng buồn nôn như vậy, nhưng người trong thôn đều đã đói quá lâu, dẫu biết rằng bên trong luồng mùi kia có bệnh dịch kịch độc, cũng vẫn cứ không nhịn được tham lam nuốt nước bọt.
Có người nói, mới đầu có người nhiễm phải thứ bệnh thiên sát này chính là bởi vì nhiều năm nạn đói liên miên, đất đai rạn nứt khô cạn, trồng thứ gì cũng không sống được. Triều đình không ngừng nói sẽ phát lương thực cứu trợ thiên tai xuống, nhưng chẳng có lấy một đồng tiền thực sự rơi vào tay bọn họ. Có người đói gần chết, thế là mặc kệ chuột hay giòi bọ, cũng đều bắt hết về ăn. Bệnh dịch trên người những loài vật dơ bẩn đó đã đi vào thân thể người như vậy, rồi cấp tốc khuếch tán rộng ra ngoài.
Trong thôn có người chạy đi lánh nạn, cũng có người chạy nạn rồi lại trở về, chỉ là lúc đi năm người, trở về lại chỉ còn một. Người đó nói với người trong thôn rằng, không cần phải chạy trốn, căn bản không có chỗ nào để trốn cả. Bọn họ đi mà cả một nhà đều chết đói chết bệnh, vẫn chẳng hề tìm nổi một nơi có mưa có nước có đất đai màu mỡ. Huống hồ những tri phủ tri châu của các thành trấn lớn còn sợ bọn họ tràn vào trong thành làm lây lan dịch bệnh, cũng sợ những người dân quê chạy nạn trộm cướp đánh phá, vì vậy liền đóng chặt cổng thành, không chỉ không cho bọn họ tiến vào, mà còn sai quan binh dùng cung tên xua đuổi giết bọn họ. Đứa con trai mười ba tuổi của người nọ bị bắn ba mũi tên, một mũi tên cắm vào trong hốc mắt, mất mạng ngay tại chỗ.
Hắn nói rằng ngoài cửa thành xương chất đầy đồng, tanh tưởi xông trời, đến ngay cả con kền kền con quạ cũng chẳng buồn đến ăn.
Người khác hỏi hắn vậy phải làm thế nào, người kia bật cười ha hả, đá vào chân tường, quát, “Chờ chết đi!!! Chờ chết đi!!! Mạng người rẻ rúng!!! Không đáng tiền!!! Ông trời cũng mặc xác rồi!!!”
Lúc đó Lục Nhi cũng nhìn thấy dáng dấp rối bù điên điên khùng khùng của người kia, một mảng lớn phát ban màu đen mơ hồ lộ ra bên ngoài cổ áo người đó.
Khi đó trong thôn đã có người mắc bệnh, dù các thôn dân đã ngay lập tức khóa kín người mắc bệnh vào trong phòng của bọn họ, thì thứ bệnh đáng sợ này vẫn có thể tìm được cơ hội len lỏi qua các kẽ hở để chui vào thân thể người.
Lục Nhi cũng nghĩ tới chuyện chạy đi, song chồng nàng lại không muốn bỏ lại ba gian nhà tranh này, không muốn bỏ lại mảnh ruộng truyền xuống từ đời ông nội, nàng cũng không tin mọi chuyện sẽ tồi tệ đến mức đó. Sau đó đợi đến khi bọn họ muốn chạy, đã không còn kịp nữa rồi.
Một tháng, ngắn ngủi chỉ một tháng, nàng đã từ một người phụ nữ có gia đình trọn vẹn rơi xuống cảnh vợ góa con côi. Đầu tiên là cô em chồng, sau đó hai đứa con của cô, rồi tới mẹ chồng, bố chồng. Đồng thời thôn bên cạnh, nhà mẹ đẻ của nàng cũng gửi tới phong thư, nói rằng chính cha mẹ nàng cũng đã nhiễm bệnh, nhưng dặn dò nàng đừng đến dự đám tang, đã chôn cất. Nàng cũng không thể biết cái được gọi là “chôn cất” trông như thế nào, một đống xác chết mục rữa bị chất thành đống, chân chọc lên mặt, không nhận ra được ai lại ai, hoặc chôn vùi hoặc thiêu cháy, không có bất kỳ chuyện an tường gì để nói.
Cuối cùng là chồng nàng. Trong lòng nàng, chồng nàng lúc nào cũng đầu đội trời chân đạp đất như vậy, phảng phất như không có vấn đề gì không giải quyết được, không có chuyện gì phải sợ sệt. Nhưng mấy canh giờ cuối cùng, chồng nàng sợ run lẩy bẩy, hỏi nàng hết lần này tới lần khác rằng sau khi chết sẽ phải đi tới nơi nào, khóc lóc nói đi nói lại với nàng rằng hắn không muốn chết. Hắn sốt đến mức hoa mắt chóng mặt, mồm miệng không rõ, như đã biến trở về một đứa trẻ, phút cuối khi chết trong lòng nàng, còn vẫn đang hỏi nàng rằng mẹ ở đâu. ngôn tình tổng tài
Sau khi chồng nàng ra đi, thì nàng cũng bắt đầu phát sốt, nàng đã mơ hồ đoán được đại nạn không còn xa mình nữa. Phạm vi trăm dặm xung quanh làng, ruộng đất đều đã khô nứt nẻ, hoa quả dại trên núi cũng đã sớm bị người miền núi đói bụng vặt sạch sành sanh, đến ngay cả chim sẻ và quạ cũng đã bị ăn sạch. Nàng đã ba ngày rồi không được ăn gì, đến nước cũng chẳng được uống. Nước kéo lên khỏi giếng cũng đục ngầu như bùn, bốc ra mùi tanh tưởi của người chết. Nàng đã không còn nhớ được mùi nước giếng sạch là thế nào nữa, giữa cơn mê man, nàng nhớ lại thứ nước giếng mát lạnh ngọt ngào khi còn bé, uống vào môi răng đượm hương. Nhưng không hiểu sao, theo nàng dần lớn lên, nước giếng lại càng ngày càng vẩn đục, nàng nhớ rằng ban đầu mẹ nàng còn từng dùng đá và cát mịn để lọc qua nước một lần, rồi đun nước lên uống. Nhưng mấy năm gần đây, nước càng ngày càng đục càng ngày càng thối, lọc rồi vẫn cứ vàng khè, ngặt nỗi mọi người cũng đã dần quen với mùi tanh đắng ê răng này, cho nên cũng không để ý tới xem có sạch hay không nữa.
Nhưng càng uống thứ nước bẩn đó, sức khỏe của mọi người lại càng kém. Không một ai biết đầu nguồn của bệnh dịch đến cùng là chuột, là nước, hay là đói bụng.
Không có nàng, con gái nàng cũng sẽ không sống nổi, thay vì để lại mình con bé giãy giụa giữa trần thế khổ cực này, chi bằng hai mẹ con cùng đi với nhau. Nàng ôm thật chặt lấy con mình, từ từ cảm thấy đầu váng mắt hoa, ngũ tạng như thiêu đốt. Căn bệnh kia nhanh chóng ăn mòn thần trí của nàng, trong cơn hoảng hốt, thế gian trong mắt nàng bắt đầu vặn vẹo biến hình, bất kể là trong không khí hay là trên vách tường, đâu đâu cũng phủ kín đặc một lớp nấm mốc thật dày, vô số những con sâu thịt mềm nhũn to chừng cánh tay và chân người quấn kết vào nhau, đâu đâu cũng có mùi vị hủ bại, đến ngay cả đứa bé trong lòng nàng cũng biến thành một thứ xấu xí mềm oặt mọc đầy xúc tu. Mà bàn tay cũng nàng cũng biến dạng, bao trùm một lớp niêm mạc nửa trong suốt, năm ngón tay đều dính liền vào nhau.
Ảo giác này lúc ẩn lúc hiện, chớp mạnh mắt một cái là tất cả lại biến trở về dáng vẻ bình thường. Cho nên nàng càng sợ hãi hơn, không biết sau khi chết mình rốt cuộc sẽ phải đi đến nơi nào. Nàng tự vấn cả đời không làm việc gì thương thiên hại lý, nhưng cũng không phải không hề oán hận ai bao giờ, dù sao con người ta sống cả đời, ai lại không có vài kẻ mà mình chán ghét? Huống hồ nàng cũng chưa bao giờ thành kính đến miếu đến quan vái lạy, có khi nào ông trời cũng sẽ cảm thấy nàng chưa đủ tốt, kiếp sau chỉ xứng đầu thai vào bên trong tam ác đạo hay không? Liệu có khi nào nàng sẽ phải biến thành một con lợn, sinh ra đã chờ để bị người giết? Hoặc là phải biến thành con trâu, một đời dốc hết tâm huyết cho đến khi chết đi vì kiệt sức? Hay lẽ nào sẽ phải đầu thai thành ác quỷ, chết không được sống không xong trong vạc dầu núi đao?
Giữa cơn sợ hãi ập tới từ hư không bốn phương tám hướng, nàng dần dà chìm sâu vào cảnh trong mộng.
Trong mộng, nhà của nàng lại biến trở về cảnh tượng như trước đây, mái nhà lá mới vừa trải, vách tường vừa mới quét vôi, sáng sủa sạch sẽ, trên bếp lửa cũng đun một ấm trà nóng.
Nàng cúi đầu xuống nhìn, con gái của nàng đang yên lành ngủ trong lồng ngực mình. Thân thể của nàng cũng hết sức khoan khoái mềm mại, cảm giác đói bụng như ruồi bâu lấy mật cũng đã hoàn toàn biến mất. Nàng thậm chí còn nghe thấy tiếng huýt sáo quen thuộc từ đằng xa vọng lại, trước kia mỗi khi chồng nàng trở về từ ngoài đồng, chàng sẽ luôn thích huýt sáo làn điệu dân ca đó, chẳng bao lâu đã có thể nghe thấy tiếng cổng tre bị đẩy ra.
Trong lòng nàng tràn trề hi vọng và ấm áp vui mừng như điên, nàng kéo cửa phòng ra.
Ngoài cửa là một biển hoa vô biên vô hạn. Đó là một loại hoa nàng chưa bao giờ thấy, cánh hoa cong cong, thê diễm như máu. Bầu trời thì lại mang sắc vàng óng thoảng ra mùi vị của hồi ức, ráng chiều mờ ảo tựa một thớ lụa mỏng.
Cả đời này, nàng chưa bao giờ gặp được cảnh tượng nào mỹ lệ như vậy, nàng mở to cặp mắt chân chất mà ngây thơ, không biết nên làm gì.
Bỗng nhiên, một cảm giác dịu dàng kỳ diệu lặng yên tràn ra bên trong lồng ngực của nàng, phảng phất như cảm giác an toàn hạnh phúc khi quây quần bên gối mẹ thuở còn thơ.
Không phải từ một chỗ cụ thể nào đó, phảng phất như trong không khí bỗng hiện lên một bóng người dong dỏng màu đỏ. Mặc dù vẫn còn cách xa cả một đoạn, mà chẳng hiểu tại sao bóng người đỏ ấy lại như thể đang lặng lẽ gọi vời nàng, khiến cho nội tâm của nàng đầy ắp những ngóng trông. Nàng bước nhanh về phía trước, chạy về phía bóng người màu đỏ như thể cửu biệt trùng phùng, rồi lại không thể không dừng bước khi nhìn thấy diện mạo của bóng người áo đỏ kia.
Đó là một người con trai thoạt nhìn có vẻ rất trẻ tuổi, rồi lại cũng vô cùng cổ xưa, mái tóc dài như đêm đen, khuôn mặt như ngọc lạnh, một đôi mắt phượng vừa có tình vừa tựa như vô tình khiến người ta hồn xiêu phách lạc. Trên người y hình như còn tỏa ra quang minh nhàn nhạt, biến cả khung cảnh mỹ lệ khiến người ta phải ngưng thở chung quanh thành phông nền cho mình. Y thoạt nhìn giống như một nhân loại, nhưng luồng khí chất thần thánh và cao quý khó có thể nhận dạng lại đang lan tỏa quanh người y, khiến cho lòng người nảy sinh kính nể không dám lỗ mãng. Mà bên ngoài vẻ thần thánh này, còn chứa đựng cả tà khí lôi kéo con người ta sa đọa, không giống với các vị thần linh không nhiễm bụi trần trong miếu đường.
Lục Nhi rưng rưng nước mắt, chẳng hiểu sao lại chỉ muốn khóc lóc thảm thiết không ngừng. Nàng dùng giọng run run hỏi, “Đây là đâu? Ngươi là ai?”
Người con trai áo đỏ nở nụ cười xán lạn như triều dương với nàng, trên má còn hiện ra lúm đồng tiền nhàn nhạt.
“Ngươi sẽ không sao, con gái ngươi cũng sẽ không gặp chuyện gì.” Y nhỏ nhẹ nói với nàng, “Ngày mai, sẽ có một đại phu đi đến thôn trấn của các ngươi, các ngươi đều sẽ được cứu. Đừng từ bỏ.”
Nước mắt như những hạt châu bị cắt đứt dây rớt xuống khỏi gò má, muốn ngăn cũng không nổi. Hai đầu gối nàng như nhũn ra, rồi cứ thế quỳ thẳng xuống, “Mau cứu lấy con gái của ta… Ta không muốn để con bé phải chịu khổ, ta muốn con ta được bình an vui vẻ lớn lên… Ta muốn nhà của ta… muốn tướng công ta, cha mẹ ta…”
“Người đã qua đời sẽ không trở về được. Nhưng ngươi vẫn còn con gái ngươi, vẫn còn có tương lai.” Người con trai áo đỏ đi chầm chậm về phía nàng, thẳng đến trước mặt nàng, y hơi rũ cặp mắt từ bi xuống, vươn ngón tay cái trên tay trái ra, điểm nhẹ lên trán nàng, “Trời xanh bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Hạnh phúc từ nay về sau, cần ngươi tự đi giành lấy.”
Ngay tích tắc ngón tay cái của y chạm lên trán nàng, một cơn đau giống như bị bỏng, lại cũng không đau đến vậy đánh thức nàng bừng tỉnh từ trong mộng. Trên trán vẫn sót lại dư vị chưa tan đi.
Đêm đã sâu, nàng lại không thể nào ngủ nổi, nghe tiếng thở dốc nặng nề của con gái, nhìn ra bầu trời đang dần rạng bên ngoài cửa sổ. Nàng không quên được giấc mộng đó, lại cảm thấy có lẽ là mình sắp lâm vào đại nạn, cho nên mới bắt đầu nhìn thấy một vài thứ kỳ quái. Chàng trai kia nói sẽ có người tới cứu bọn họ, nhưng nàng không tin. Khi cha mẹ chồng đổ bệnh, nàng cũng đã từng tin tưởng vào kỳ tích, khi chồng nàng đổ bệnh, nàng cũng từng tin tưởng vào kỳ tích, song đến bây giờ nàng đã không còn tin nữa.
Nhưng không lâu sau khi trời sáng, quả thực đã nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân.
Cánh cửa nhà xập xệ bị đẩy ra, trong tầm mắt mơ hồ, một ông lão đi vào nhà. Ông lão này có khuôn mặt hiền từ, để cặp râu dê, quan sát tỉ mỉ mà tường tận sắc mặt nàng, còn vén mí mắt nàng lên nhìn vào trong hốc mắt.
“Ngươi là…”
“Ta là đại phu.” Ông lão dùng giọng trầm ổn nói rằng, “Đừng sợ, chẳng mấy chốc sẽ đỡ thôi.”
Nàng không thể tin nổi. Ở ngôi làng đã bị dịch bệnh càn quét tan hoang cho gần như đã sắp chết sạch này, không một đại phu nào chịu đến đây.
Ông lão bắt mạch cho nàng, rồi nghiêm túc tra xét khí sắc của con gái nàng, sau đó lão lấy ra một cái túi nước, rút nhút ra, đưa đến bên môi nàng.
“Nào, uống một hớp, uống xong là khỏe.”
Nước suôi mát lạnh ngọt lành chảy ùa vào cổ họng, mùi vị như ký ức của tuổi ấu thơ. Nàng tham lam uống từng ngụm, lục phủ ngũ tạng đều như được rửa sạch một lần.
Cơn khoan khoái khó có thể diễn tả bằng lời lan ra cả người, phảng phất như đã xối sạch hết những thứ dơ bẩn vì chịu đói chịu sợ từ năm này qua tháng nọ. Nàng cảm thấy một luồng sức mạnh ấm áp tựa ánh nắng đang lan tràn ra trong mạch máu mình, thể lực vốn đã mất đi lại một lần nữa tích tụ lại bên trong những bắp thịt, tầm nhìn vẩn đục mờ nhòe cũng dần dần trở nên trong rõ.
Nàng kinh ngạc tột độ, cảm giác cả người thoải mái thư thái như thể đã thoát thai hoán cốt.
Ông lão lại rót nước vào trong miệng đứa bé, khuôn mặt bé nhỏ phát sốt cho nóng bỏng cũng chẳng mấy chốc đã khôi phục trở về vẻ trắng mịn sạch sẽ ban đầu, nét mặt vẫn luôn nhăn lại vì đau đớn cũng giãn ra, đã không còn nhịp thở nặng nề làm người nghẹt thở nữa.
Lục Nhi mừng phát khóc, ôm lấy con gái của mình òa khóc thất thanh. Nàng quỳ xuống đất muốn dập đầu lạy đại phu, lại bị ông lão đỡ dạy, “Chớ cảm ơn ta, ta cũng chỉ đang hoàn thành sứ mạng của ta mà thôi. Người ngươi nên tạ ơn là Đệ Lục Thiên Ma.”
Nàng sững sờ, không hiểu sao lại chợt nhớ tới người áo đỏ trong giấc mộng tối qua.
Ông lão thấy nàng khóc cho mặt nhòe nhoẹt nước mắt, liền lấy từ trong lồng ngực ra một chiếc khăn tay đưa cho nàng, để nàng lau mặt, “Nếu như ngươi muốn gặp ngài, hoặc là muốn biết những người thân yêu nhất của ngươi kiếp sau sẽ ở nơi nào, thì ba tháng sau, hãy đi tới chân núi Hạc Linh tìm ngài.”
Nàng hơi lúng túng hỏi, “Núi Hạc Linh? Ta chưa nghe nói tới bao giờ…”
“Cứ đi về phía Nam, ước chừng một tháng, là sẽ có thể đến.” Ông lão cười nói, “Ngươi đã từng gặp ngài trong mộng, đến khi đó tự có duyên phận.” Nói xong, lão liền nhẹ nhàng rời đi.
Nàng ôm con mình đi ra khỏi căn nhà đã lụp xụp rách rưới, lại phát hiện trên con đường bấy lâu nay luôn tàn tạ khắp nơi, lác đác vẫn còn vài bóng người thân đơn bóng chiếc đi ra từ cổng nhà mình, trên người vẫn là quần rách áo nát, mà trên mặt lại mang theo vẻ mờ mịt vì sống sót sau cơn hoạn nạn, rồi cũng lại hiện lên sắc hồng hào khỏe mạnh.
Trong thôn chỉ có chừng một phần ba người còn sống, có người nói rằng đã nhìn thấy đại phu kia lấy nước từ trong giếng nước bản địa của bọn họ, rót nước vào trong bình. Thế nhưng nước giếng của bọn họ sao có thể trong veo được như vậy? Mấy người trong thôn nửa tin nửa ngờ, liền đi đến giếng nước chính giữa thôn, ném xô gỗ cũ nát xuống, nghe thấy tiếng nước ồ lên. Mà nước kéo lên quả thực trong veo ngọt lành, tỏa ra mùi thơm ngát như quả mọng khó tả bằng lời!
Thần tích dường như vẫn còn tiếp tục. Sau khi bọn họ được cứu vớt, chẳng bao lâu sau trời đã hạ cơn mưa sau đại hạn, tuy không phải là mưa rào tầm tã, nhưng cũng dai dẳng đổ xuống lòng đất hơn nửa tháng. Mặt đất vốn khô cằn rạn nứt lại một lần nữa được tưới tắm, dần dần khôi phục được sức sống từ cơn chấn thương. Đến cuối xuân, đã có mầm cây ngọn cỏ mới nảy mầm.
Không ít người trong thôn mừng rỡ thắp hương vái trời, dùng thân thể gầy dơ xương lôi lưỡi cày cũ kỹ đi xới mặt đất bất tri bất giác đã trở nên màu mỡ. Thế nhưng nhiều người hơn lại thầm thì giữa đêm khuya khoắt với nhau rằng, trước khi được cứu trợ, bọn họ đều từng thấy một người áo đỏ thần bí trong mơ.
Người áo đỏ nói rằng bọn họ sẽ được cứu, bảo bọn họ đừng từ bỏ. Mà sau đó người đại phu cứu bọn họ cũng nói rằng lão cũng chỉ phụng lệnh làm việc.
Người áo đỏ liệu có phải là thần tiên không? Có phải là Bồ Tát đã cứu bọn họ không? Bằng không tại sao mặt đất nhanh chóng khô cạn lại như được tẩm bổ bởi một luồng sức mạnh vô hình nào đó, trong thời gian ngắn ngủi đã có thể khôi phục sinh khí, đủ mọi lời suy đoán lưu truyền giữa thành trấn thôn trang đang dần dần lấy lại sức sống, danh hào của Đệ Lục Thiên Ma cũng lan truyền nhanh chóng.
Thiên Ma, không phải ác thần sao? Vì sao một vị Bồ Tát cứu độ bọn họ, lại dùng từ “Ma” để tự gọi mình?
Tuy hiếu kỳ, tuy trong lòng đầy ắp những kính yêu và ngóng trông thần bí, nhưng đại đa số người vẫn lựa chọn trải qua cuộc sống đơn giản trước khi bị tai họa tàn phá trên mảnh đất của mình.
Thế nhưng Lục Nhi lại khác, sáng sớm mai một tháng sau, nàng cõng lấy con gái mình, cùng vài người khác trong thôn lên đường.
Nàng muốn đi tìm Đệ Lục Thiên Ma mà lão đại phu kia nói, nàng muốn biết chồng của nàng, người thân của nàng chết rồi rốt cuộc sẽ đi đến nơi nào. Dù sao nàng cũng đã từng gần kề tử vong như vậy, gần đến độ tựa như có thể thấy một phần thế giới sau khi chết. Nàng không dám tưởng tượng những con người hiền lành mà nàng yêu thương nhất, chết rồi sẽ phải sinh sống ở một nơi tệ hại như vậy.
Tử vong đã mở ra cặp mắt bị cuộc sống vụn vặt trong quá khứ che đậy của nàng. Đời người yếu ớt tới cỡ nào, ở khoảnh khắc tử vong lại cô độc sợ hãi tới mức nào, làm sao mới có thể trốn chạy cơn sợ hãi như sắp rơi vào vực thẳm không đáy đó, chẳng lẽ không phải là vấn đề cần giải quyết cấp bách nhất sao?
Dù sao tuổi thọ của nhân loại cũng chóng vánh như vậy, tuy hiện tại đã may mắn qua khỏi đại nạn, nhưng lần sau thì sao?
Nếu như Thiên Ma có thể cứu nàng, có lẽ ngài cũng sẽ có thể cứu được những người đã chết đó? Đằng nào thì giờ nàng cũng đã không còn gì cả, thay vì lưu lại vờ như chưa có chuyện gì xảy ra để rồi sống hết nửa cuộc đời còn lại, không bằng mau mau đi làm sáng tỏ hoài nghi trong lòng.
Nàng không biết là, còn có rất nhiều người có ý nghĩ tương tự như nàng.
Trong vòng ba tháng, dịch bệnh và nạn đói vốn đang tàn phá tan hoang nhân gian đã được giảm bớt và khống chế như một kỳ tích. Khắp nơi đều có không ít những thầy thuốc diệu thủ hồi xuân, tựa như thể bọn họ đều đã thương lượng với nhau, không sợ mình bị lây nhiễm, mạo hiểm thâm nhập vào trong lòng vùng dịch, cứu sống đến hàng mấy chục ngàn bách tính. Kỳ quái là, không ít dân chúng đều công bố, thứ thuốc bọn họ nhận được lại chỉ là một bát nước mà đại phu lấy từ chính nơi mình ở.
Cùng lúc đó, trong điện Cửu Hoa trên Ly Hận Thiên, một thần tiên vội vàng chạy vào, bẩm báo với Trường Canh tinh quân đang nhắm mắt tĩnh tu rằng địa khí của cõi trời thứ sáu đã bị đánh cắp, hư hư thực thực đổ xuống nhân gian.
Trường Canh tinh quân mở cặp mắt lạnh như băng, cười khẩy, “Ta biết rồi. Đừng đánh rắn động cỏ, đi mời Nữ Bạt tới đây.”
Nhưng Lục Nhi lại không hề cảm thấy con mình đang nóng bỏng tay, bởi vì chính nàng cũng đang phát sốt. Môi nàng khô nứt nẻ rách da, đôi mắt lại vằn vện những sợi tơ máu đến mức sắp không nhìn thấy tròng trắng đâu, giống như giữa hai hố máu lại điểm hai chấm đen, trông đáng sợ như là ác quỷ. Khóe miệng của nàng vẫn còn vương vết máu trào ra từ cơn ho lần trước, làn da lộ ra bên ngoài phủ kín những vết xanh đen, tựa như nấm mốc mục nát mốc meo.
Ngôi nhà xưa kia của nàng giờ chỉ còn lại là bốn bức tường đất xập xệ lụp xụp chống đỡ mái nhà cỏ lau đã sụp mất một nửa trên đỉnh đầu. Chồng nàng, cha mẹ chồng nàng, cha mẹ đẻ nàng, anh cả của nàng, cô em chồng, hai đứa bé con sinh đôi của nhà cô em chồng, tất cả đều đã chết, chết rồi lại không có được một đám tang đường hoàng, mấy người đàn ông dùng vải rách che lại miệng mũi quấn thi thể của bọn họ vào trong tấm chiếu cói, rồi ném vào một cái hố to bên ngoài làng thiêu cháy. Mùi cháy khét khi thịt thối bị thiêu chín rõ ràng buồn nôn như vậy, nhưng người trong thôn đều đã đói quá lâu, dẫu biết rằng bên trong luồng mùi kia có bệnh dịch kịch độc, cũng vẫn cứ không nhịn được tham lam nuốt nước bọt.
Có người nói, mới đầu có người nhiễm phải thứ bệnh thiên sát này chính là bởi vì nhiều năm nạn đói liên miên, đất đai rạn nứt khô cạn, trồng thứ gì cũng không sống được. Triều đình không ngừng nói sẽ phát lương thực cứu trợ thiên tai xuống, nhưng chẳng có lấy một đồng tiền thực sự rơi vào tay bọn họ. Có người đói gần chết, thế là mặc kệ chuột hay giòi bọ, cũng đều bắt hết về ăn. Bệnh dịch trên người những loài vật dơ bẩn đó đã đi vào thân thể người như vậy, rồi cấp tốc khuếch tán rộng ra ngoài.
Trong thôn có người chạy đi lánh nạn, cũng có người chạy nạn rồi lại trở về, chỉ là lúc đi năm người, trở về lại chỉ còn một. Người đó nói với người trong thôn rằng, không cần phải chạy trốn, căn bản không có chỗ nào để trốn cả. Bọn họ đi mà cả một nhà đều chết đói chết bệnh, vẫn chẳng hề tìm nổi một nơi có mưa có nước có đất đai màu mỡ. Huống hồ những tri phủ tri châu của các thành trấn lớn còn sợ bọn họ tràn vào trong thành làm lây lan dịch bệnh, cũng sợ những người dân quê chạy nạn trộm cướp đánh phá, vì vậy liền đóng chặt cổng thành, không chỉ không cho bọn họ tiến vào, mà còn sai quan binh dùng cung tên xua đuổi giết bọn họ. Đứa con trai mười ba tuổi của người nọ bị bắn ba mũi tên, một mũi tên cắm vào trong hốc mắt, mất mạng ngay tại chỗ.
Hắn nói rằng ngoài cửa thành xương chất đầy đồng, tanh tưởi xông trời, đến ngay cả con kền kền con quạ cũng chẳng buồn đến ăn.
Người khác hỏi hắn vậy phải làm thế nào, người kia bật cười ha hả, đá vào chân tường, quát, “Chờ chết đi!!! Chờ chết đi!!! Mạng người rẻ rúng!!! Không đáng tiền!!! Ông trời cũng mặc xác rồi!!!”
Lúc đó Lục Nhi cũng nhìn thấy dáng dấp rối bù điên điên khùng khùng của người kia, một mảng lớn phát ban màu đen mơ hồ lộ ra bên ngoài cổ áo người đó.
Khi đó trong thôn đã có người mắc bệnh, dù các thôn dân đã ngay lập tức khóa kín người mắc bệnh vào trong phòng của bọn họ, thì thứ bệnh đáng sợ này vẫn có thể tìm được cơ hội len lỏi qua các kẽ hở để chui vào thân thể người.
Lục Nhi cũng nghĩ tới chuyện chạy đi, song chồng nàng lại không muốn bỏ lại ba gian nhà tranh này, không muốn bỏ lại mảnh ruộng truyền xuống từ đời ông nội, nàng cũng không tin mọi chuyện sẽ tồi tệ đến mức đó. Sau đó đợi đến khi bọn họ muốn chạy, đã không còn kịp nữa rồi.
Một tháng, ngắn ngủi chỉ một tháng, nàng đã từ một người phụ nữ có gia đình trọn vẹn rơi xuống cảnh vợ góa con côi. Đầu tiên là cô em chồng, sau đó hai đứa con của cô, rồi tới mẹ chồng, bố chồng. Đồng thời thôn bên cạnh, nhà mẹ đẻ của nàng cũng gửi tới phong thư, nói rằng chính cha mẹ nàng cũng đã nhiễm bệnh, nhưng dặn dò nàng đừng đến dự đám tang, đã chôn cất. Nàng cũng không thể biết cái được gọi là “chôn cất” trông như thế nào, một đống xác chết mục rữa bị chất thành đống, chân chọc lên mặt, không nhận ra được ai lại ai, hoặc chôn vùi hoặc thiêu cháy, không có bất kỳ chuyện an tường gì để nói.
Cuối cùng là chồng nàng. Trong lòng nàng, chồng nàng lúc nào cũng đầu đội trời chân đạp đất như vậy, phảng phất như không có vấn đề gì không giải quyết được, không có chuyện gì phải sợ sệt. Nhưng mấy canh giờ cuối cùng, chồng nàng sợ run lẩy bẩy, hỏi nàng hết lần này tới lần khác rằng sau khi chết sẽ phải đi tới nơi nào, khóc lóc nói đi nói lại với nàng rằng hắn không muốn chết. Hắn sốt đến mức hoa mắt chóng mặt, mồm miệng không rõ, như đã biến trở về một đứa trẻ, phút cuối khi chết trong lòng nàng, còn vẫn đang hỏi nàng rằng mẹ ở đâu. ngôn tình tổng tài
Sau khi chồng nàng ra đi, thì nàng cũng bắt đầu phát sốt, nàng đã mơ hồ đoán được đại nạn không còn xa mình nữa. Phạm vi trăm dặm xung quanh làng, ruộng đất đều đã khô nứt nẻ, hoa quả dại trên núi cũng đã sớm bị người miền núi đói bụng vặt sạch sành sanh, đến ngay cả chim sẻ và quạ cũng đã bị ăn sạch. Nàng đã ba ngày rồi không được ăn gì, đến nước cũng chẳng được uống. Nước kéo lên khỏi giếng cũng đục ngầu như bùn, bốc ra mùi tanh tưởi của người chết. Nàng đã không còn nhớ được mùi nước giếng sạch là thế nào nữa, giữa cơn mê man, nàng nhớ lại thứ nước giếng mát lạnh ngọt ngào khi còn bé, uống vào môi răng đượm hương. Nhưng không hiểu sao, theo nàng dần lớn lên, nước giếng lại càng ngày càng vẩn đục, nàng nhớ rằng ban đầu mẹ nàng còn từng dùng đá và cát mịn để lọc qua nước một lần, rồi đun nước lên uống. Nhưng mấy năm gần đây, nước càng ngày càng đục càng ngày càng thối, lọc rồi vẫn cứ vàng khè, ngặt nỗi mọi người cũng đã dần quen với mùi tanh đắng ê răng này, cho nên cũng không để ý tới xem có sạch hay không nữa.
Nhưng càng uống thứ nước bẩn đó, sức khỏe của mọi người lại càng kém. Không một ai biết đầu nguồn của bệnh dịch đến cùng là chuột, là nước, hay là đói bụng.
Không có nàng, con gái nàng cũng sẽ không sống nổi, thay vì để lại mình con bé giãy giụa giữa trần thế khổ cực này, chi bằng hai mẹ con cùng đi với nhau. Nàng ôm thật chặt lấy con mình, từ từ cảm thấy đầu váng mắt hoa, ngũ tạng như thiêu đốt. Căn bệnh kia nhanh chóng ăn mòn thần trí của nàng, trong cơn hoảng hốt, thế gian trong mắt nàng bắt đầu vặn vẹo biến hình, bất kể là trong không khí hay là trên vách tường, đâu đâu cũng phủ kín đặc một lớp nấm mốc thật dày, vô số những con sâu thịt mềm nhũn to chừng cánh tay và chân người quấn kết vào nhau, đâu đâu cũng có mùi vị hủ bại, đến ngay cả đứa bé trong lòng nàng cũng biến thành một thứ xấu xí mềm oặt mọc đầy xúc tu. Mà bàn tay cũng nàng cũng biến dạng, bao trùm một lớp niêm mạc nửa trong suốt, năm ngón tay đều dính liền vào nhau.
Ảo giác này lúc ẩn lúc hiện, chớp mạnh mắt một cái là tất cả lại biến trở về dáng vẻ bình thường. Cho nên nàng càng sợ hãi hơn, không biết sau khi chết mình rốt cuộc sẽ phải đi đến nơi nào. Nàng tự vấn cả đời không làm việc gì thương thiên hại lý, nhưng cũng không phải không hề oán hận ai bao giờ, dù sao con người ta sống cả đời, ai lại không có vài kẻ mà mình chán ghét? Huống hồ nàng cũng chưa bao giờ thành kính đến miếu đến quan vái lạy, có khi nào ông trời cũng sẽ cảm thấy nàng chưa đủ tốt, kiếp sau chỉ xứng đầu thai vào bên trong tam ác đạo hay không? Liệu có khi nào nàng sẽ phải biến thành một con lợn, sinh ra đã chờ để bị người giết? Hoặc là phải biến thành con trâu, một đời dốc hết tâm huyết cho đến khi chết đi vì kiệt sức? Hay lẽ nào sẽ phải đầu thai thành ác quỷ, chết không được sống không xong trong vạc dầu núi đao?
Giữa cơn sợ hãi ập tới từ hư không bốn phương tám hướng, nàng dần dà chìm sâu vào cảnh trong mộng.
Trong mộng, nhà của nàng lại biến trở về cảnh tượng như trước đây, mái nhà lá mới vừa trải, vách tường vừa mới quét vôi, sáng sủa sạch sẽ, trên bếp lửa cũng đun một ấm trà nóng.
Nàng cúi đầu xuống nhìn, con gái của nàng đang yên lành ngủ trong lồng ngực mình. Thân thể của nàng cũng hết sức khoan khoái mềm mại, cảm giác đói bụng như ruồi bâu lấy mật cũng đã hoàn toàn biến mất. Nàng thậm chí còn nghe thấy tiếng huýt sáo quen thuộc từ đằng xa vọng lại, trước kia mỗi khi chồng nàng trở về từ ngoài đồng, chàng sẽ luôn thích huýt sáo làn điệu dân ca đó, chẳng bao lâu đã có thể nghe thấy tiếng cổng tre bị đẩy ra.
Trong lòng nàng tràn trề hi vọng và ấm áp vui mừng như điên, nàng kéo cửa phòng ra.
Ngoài cửa là một biển hoa vô biên vô hạn. Đó là một loại hoa nàng chưa bao giờ thấy, cánh hoa cong cong, thê diễm như máu. Bầu trời thì lại mang sắc vàng óng thoảng ra mùi vị của hồi ức, ráng chiều mờ ảo tựa một thớ lụa mỏng.
Cả đời này, nàng chưa bao giờ gặp được cảnh tượng nào mỹ lệ như vậy, nàng mở to cặp mắt chân chất mà ngây thơ, không biết nên làm gì.
Bỗng nhiên, một cảm giác dịu dàng kỳ diệu lặng yên tràn ra bên trong lồng ngực của nàng, phảng phất như cảm giác an toàn hạnh phúc khi quây quần bên gối mẹ thuở còn thơ.
Không phải từ một chỗ cụ thể nào đó, phảng phất như trong không khí bỗng hiện lên một bóng người dong dỏng màu đỏ. Mặc dù vẫn còn cách xa cả một đoạn, mà chẳng hiểu tại sao bóng người đỏ ấy lại như thể đang lặng lẽ gọi vời nàng, khiến cho nội tâm của nàng đầy ắp những ngóng trông. Nàng bước nhanh về phía trước, chạy về phía bóng người màu đỏ như thể cửu biệt trùng phùng, rồi lại không thể không dừng bước khi nhìn thấy diện mạo của bóng người áo đỏ kia.
Đó là một người con trai thoạt nhìn có vẻ rất trẻ tuổi, rồi lại cũng vô cùng cổ xưa, mái tóc dài như đêm đen, khuôn mặt như ngọc lạnh, một đôi mắt phượng vừa có tình vừa tựa như vô tình khiến người ta hồn xiêu phách lạc. Trên người y hình như còn tỏa ra quang minh nhàn nhạt, biến cả khung cảnh mỹ lệ khiến người ta phải ngưng thở chung quanh thành phông nền cho mình. Y thoạt nhìn giống như một nhân loại, nhưng luồng khí chất thần thánh và cao quý khó có thể nhận dạng lại đang lan tỏa quanh người y, khiến cho lòng người nảy sinh kính nể không dám lỗ mãng. Mà bên ngoài vẻ thần thánh này, còn chứa đựng cả tà khí lôi kéo con người ta sa đọa, không giống với các vị thần linh không nhiễm bụi trần trong miếu đường.
Lục Nhi rưng rưng nước mắt, chẳng hiểu sao lại chỉ muốn khóc lóc thảm thiết không ngừng. Nàng dùng giọng run run hỏi, “Đây là đâu? Ngươi là ai?”
Người con trai áo đỏ nở nụ cười xán lạn như triều dương với nàng, trên má còn hiện ra lúm đồng tiền nhàn nhạt.
“Ngươi sẽ không sao, con gái ngươi cũng sẽ không gặp chuyện gì.” Y nhỏ nhẹ nói với nàng, “Ngày mai, sẽ có một đại phu đi đến thôn trấn của các ngươi, các ngươi đều sẽ được cứu. Đừng từ bỏ.”
Nước mắt như những hạt châu bị cắt đứt dây rớt xuống khỏi gò má, muốn ngăn cũng không nổi. Hai đầu gối nàng như nhũn ra, rồi cứ thế quỳ thẳng xuống, “Mau cứu lấy con gái của ta… Ta không muốn để con bé phải chịu khổ, ta muốn con ta được bình an vui vẻ lớn lên… Ta muốn nhà của ta… muốn tướng công ta, cha mẹ ta…”
“Người đã qua đời sẽ không trở về được. Nhưng ngươi vẫn còn con gái ngươi, vẫn còn có tương lai.” Người con trai áo đỏ đi chầm chậm về phía nàng, thẳng đến trước mặt nàng, y hơi rũ cặp mắt từ bi xuống, vươn ngón tay cái trên tay trái ra, điểm nhẹ lên trán nàng, “Trời xanh bất nhân, coi vạn vật như chó rơm. Hạnh phúc từ nay về sau, cần ngươi tự đi giành lấy.”
Ngay tích tắc ngón tay cái của y chạm lên trán nàng, một cơn đau giống như bị bỏng, lại cũng không đau đến vậy đánh thức nàng bừng tỉnh từ trong mộng. Trên trán vẫn sót lại dư vị chưa tan đi.
Đêm đã sâu, nàng lại không thể nào ngủ nổi, nghe tiếng thở dốc nặng nề của con gái, nhìn ra bầu trời đang dần rạng bên ngoài cửa sổ. Nàng không quên được giấc mộng đó, lại cảm thấy có lẽ là mình sắp lâm vào đại nạn, cho nên mới bắt đầu nhìn thấy một vài thứ kỳ quái. Chàng trai kia nói sẽ có người tới cứu bọn họ, nhưng nàng không tin. Khi cha mẹ chồng đổ bệnh, nàng cũng đã từng tin tưởng vào kỳ tích, khi chồng nàng đổ bệnh, nàng cũng từng tin tưởng vào kỳ tích, song đến bây giờ nàng đã không còn tin nữa.
Nhưng không lâu sau khi trời sáng, quả thực đã nghe thấy ngoài cửa có tiếng bước chân.
Cánh cửa nhà xập xệ bị đẩy ra, trong tầm mắt mơ hồ, một ông lão đi vào nhà. Ông lão này có khuôn mặt hiền từ, để cặp râu dê, quan sát tỉ mỉ mà tường tận sắc mặt nàng, còn vén mí mắt nàng lên nhìn vào trong hốc mắt.
“Ngươi là…”
“Ta là đại phu.” Ông lão dùng giọng trầm ổn nói rằng, “Đừng sợ, chẳng mấy chốc sẽ đỡ thôi.”
Nàng không thể tin nổi. Ở ngôi làng đã bị dịch bệnh càn quét tan hoang cho gần như đã sắp chết sạch này, không một đại phu nào chịu đến đây.
Ông lão bắt mạch cho nàng, rồi nghiêm túc tra xét khí sắc của con gái nàng, sau đó lão lấy ra một cái túi nước, rút nhút ra, đưa đến bên môi nàng.
“Nào, uống một hớp, uống xong là khỏe.”
Nước suôi mát lạnh ngọt lành chảy ùa vào cổ họng, mùi vị như ký ức của tuổi ấu thơ. Nàng tham lam uống từng ngụm, lục phủ ngũ tạng đều như được rửa sạch một lần.
Cơn khoan khoái khó có thể diễn tả bằng lời lan ra cả người, phảng phất như đã xối sạch hết những thứ dơ bẩn vì chịu đói chịu sợ từ năm này qua tháng nọ. Nàng cảm thấy một luồng sức mạnh ấm áp tựa ánh nắng đang lan tràn ra trong mạch máu mình, thể lực vốn đã mất đi lại một lần nữa tích tụ lại bên trong những bắp thịt, tầm nhìn vẩn đục mờ nhòe cũng dần dần trở nên trong rõ.
Nàng kinh ngạc tột độ, cảm giác cả người thoải mái thư thái như thể đã thoát thai hoán cốt.
Ông lão lại rót nước vào trong miệng đứa bé, khuôn mặt bé nhỏ phát sốt cho nóng bỏng cũng chẳng mấy chốc đã khôi phục trở về vẻ trắng mịn sạch sẽ ban đầu, nét mặt vẫn luôn nhăn lại vì đau đớn cũng giãn ra, đã không còn nhịp thở nặng nề làm người nghẹt thở nữa.
Lục Nhi mừng phát khóc, ôm lấy con gái của mình òa khóc thất thanh. Nàng quỳ xuống đất muốn dập đầu lạy đại phu, lại bị ông lão đỡ dạy, “Chớ cảm ơn ta, ta cũng chỉ đang hoàn thành sứ mạng của ta mà thôi. Người ngươi nên tạ ơn là Đệ Lục Thiên Ma.”
Nàng sững sờ, không hiểu sao lại chợt nhớ tới người áo đỏ trong giấc mộng tối qua.
Ông lão thấy nàng khóc cho mặt nhòe nhoẹt nước mắt, liền lấy từ trong lồng ngực ra một chiếc khăn tay đưa cho nàng, để nàng lau mặt, “Nếu như ngươi muốn gặp ngài, hoặc là muốn biết những người thân yêu nhất của ngươi kiếp sau sẽ ở nơi nào, thì ba tháng sau, hãy đi tới chân núi Hạc Linh tìm ngài.”
Nàng hơi lúng túng hỏi, “Núi Hạc Linh? Ta chưa nghe nói tới bao giờ…”
“Cứ đi về phía Nam, ước chừng một tháng, là sẽ có thể đến.” Ông lão cười nói, “Ngươi đã từng gặp ngài trong mộng, đến khi đó tự có duyên phận.” Nói xong, lão liền nhẹ nhàng rời đi.
Nàng ôm con mình đi ra khỏi căn nhà đã lụp xụp rách rưới, lại phát hiện trên con đường bấy lâu nay luôn tàn tạ khắp nơi, lác đác vẫn còn vài bóng người thân đơn bóng chiếc đi ra từ cổng nhà mình, trên người vẫn là quần rách áo nát, mà trên mặt lại mang theo vẻ mờ mịt vì sống sót sau cơn hoạn nạn, rồi cũng lại hiện lên sắc hồng hào khỏe mạnh.
Trong thôn chỉ có chừng một phần ba người còn sống, có người nói rằng đã nhìn thấy đại phu kia lấy nước từ trong giếng nước bản địa của bọn họ, rót nước vào trong bình. Thế nhưng nước giếng của bọn họ sao có thể trong veo được như vậy? Mấy người trong thôn nửa tin nửa ngờ, liền đi đến giếng nước chính giữa thôn, ném xô gỗ cũ nát xuống, nghe thấy tiếng nước ồ lên. Mà nước kéo lên quả thực trong veo ngọt lành, tỏa ra mùi thơm ngát như quả mọng khó tả bằng lời!
Thần tích dường như vẫn còn tiếp tục. Sau khi bọn họ được cứu vớt, chẳng bao lâu sau trời đã hạ cơn mưa sau đại hạn, tuy không phải là mưa rào tầm tã, nhưng cũng dai dẳng đổ xuống lòng đất hơn nửa tháng. Mặt đất vốn khô cằn rạn nứt lại một lần nữa được tưới tắm, dần dần khôi phục được sức sống từ cơn chấn thương. Đến cuối xuân, đã có mầm cây ngọn cỏ mới nảy mầm.
Không ít người trong thôn mừng rỡ thắp hương vái trời, dùng thân thể gầy dơ xương lôi lưỡi cày cũ kỹ đi xới mặt đất bất tri bất giác đã trở nên màu mỡ. Thế nhưng nhiều người hơn lại thầm thì giữa đêm khuya khoắt với nhau rằng, trước khi được cứu trợ, bọn họ đều từng thấy một người áo đỏ thần bí trong mơ.
Người áo đỏ nói rằng bọn họ sẽ được cứu, bảo bọn họ đừng từ bỏ. Mà sau đó người đại phu cứu bọn họ cũng nói rằng lão cũng chỉ phụng lệnh làm việc.
Người áo đỏ liệu có phải là thần tiên không? Có phải là Bồ Tát đã cứu bọn họ không? Bằng không tại sao mặt đất nhanh chóng khô cạn lại như được tẩm bổ bởi một luồng sức mạnh vô hình nào đó, trong thời gian ngắn ngủi đã có thể khôi phục sinh khí, đủ mọi lời suy đoán lưu truyền giữa thành trấn thôn trang đang dần dần lấy lại sức sống, danh hào của Đệ Lục Thiên Ma cũng lan truyền nhanh chóng.
Thiên Ma, không phải ác thần sao? Vì sao một vị Bồ Tát cứu độ bọn họ, lại dùng từ “Ma” để tự gọi mình?
Tuy hiếu kỳ, tuy trong lòng đầy ắp những kính yêu và ngóng trông thần bí, nhưng đại đa số người vẫn lựa chọn trải qua cuộc sống đơn giản trước khi bị tai họa tàn phá trên mảnh đất của mình.
Thế nhưng Lục Nhi lại khác, sáng sớm mai một tháng sau, nàng cõng lấy con gái mình, cùng vài người khác trong thôn lên đường.
Nàng muốn đi tìm Đệ Lục Thiên Ma mà lão đại phu kia nói, nàng muốn biết chồng của nàng, người thân của nàng chết rồi rốt cuộc sẽ đi đến nơi nào. Dù sao nàng cũng đã từng gần kề tử vong như vậy, gần đến độ tựa như có thể thấy một phần thế giới sau khi chết. Nàng không dám tưởng tượng những con người hiền lành mà nàng yêu thương nhất, chết rồi sẽ phải sinh sống ở một nơi tệ hại như vậy.
Tử vong đã mở ra cặp mắt bị cuộc sống vụn vặt trong quá khứ che đậy của nàng. Đời người yếu ớt tới cỡ nào, ở khoảnh khắc tử vong lại cô độc sợ hãi tới mức nào, làm sao mới có thể trốn chạy cơn sợ hãi như sắp rơi vào vực thẳm không đáy đó, chẳng lẽ không phải là vấn đề cần giải quyết cấp bách nhất sao?
Dù sao tuổi thọ của nhân loại cũng chóng vánh như vậy, tuy hiện tại đã may mắn qua khỏi đại nạn, nhưng lần sau thì sao?
Nếu như Thiên Ma có thể cứu nàng, có lẽ ngài cũng sẽ có thể cứu được những người đã chết đó? Đằng nào thì giờ nàng cũng đã không còn gì cả, thay vì lưu lại vờ như chưa có chuyện gì xảy ra để rồi sống hết nửa cuộc đời còn lại, không bằng mau mau đi làm sáng tỏ hoài nghi trong lòng.
Nàng không biết là, còn có rất nhiều người có ý nghĩ tương tự như nàng.
Trong vòng ba tháng, dịch bệnh và nạn đói vốn đang tàn phá tan hoang nhân gian đã được giảm bớt và khống chế như một kỳ tích. Khắp nơi đều có không ít những thầy thuốc diệu thủ hồi xuân, tựa như thể bọn họ đều đã thương lượng với nhau, không sợ mình bị lây nhiễm, mạo hiểm thâm nhập vào trong lòng vùng dịch, cứu sống đến hàng mấy chục ngàn bách tính. Kỳ quái là, không ít dân chúng đều công bố, thứ thuốc bọn họ nhận được lại chỉ là một bát nước mà đại phu lấy từ chính nơi mình ở.
Cùng lúc đó, trong điện Cửu Hoa trên Ly Hận Thiên, một thần tiên vội vàng chạy vào, bẩm báo với Trường Canh tinh quân đang nhắm mắt tĩnh tu rằng địa khí của cõi trời thứ sáu đã bị đánh cắp, hư hư thực thực đổ xuống nhân gian.
Trường Canh tinh quân mở cặp mắt lạnh như băng, cười khẩy, “Ta biết rồi. Đừng đánh rắn động cỏ, đi mời Nữ Bạt tới đây.”