Chương : 16
Andemund khoác thêm áo cho tôi rồi từ tốn cài giúp tôi hàng khuy bằng đồng màu vàng tối. Cửa sổ vẫn mở, anh ấy nửa quỳ bên giường tôi, mùi hương mát lành ngoài vườn hoa vương đâu đó quanh anh ấy. Còn một khuy cuối cùng, tự dưng anh ấy ngừng lại rồi nói bằng giọng đầy hứng thú: “Quả nhiên em là người đứng sau Lindon.”
Tôi giật mình: “Sao anh biết?”
“Lý thuyết nhóm.” Andemund mỉm cười với tôi: “Trong những tài liệu Lindon đưa cho anh suốt quá trình giải mã có rất nhiều điểm đã được đề cập trong luận văn của em. Bản thảo luận văn em gửi Dr. Watts ở Hiệp hội toán học London hồi ấy em nhớ không?”
Đương nhiên là tôi nhớ, năm ấy là mùa đông đầu tiên kể từ khi chúng tôi chia tay, tuyết mới rơi lất phất. Tôi tới tận nhà giáo sư ở phía Tây London để gửi bản thảo rồi gặp anh ấy, anh ấy còn cứng rắn cấm tôi không được tham gia mấy hội nghiên cứu số học nữa.
“Anh xem luận văn của em à?”
Andemund gật đầu: “Từng trang một.”
“Lúc đó anh chỉ mới nghi ngờ, vì em và Lindon là bạn bè, không loại trừ khả năng cậu ta cũng được đọc bản thảo của em. Chỉ đến lần này thẩm vấn cậu ta anh mới hoàn toàn chắc chắn.”
“Thẩm vấn cậu ta sao?” tôi ngơ ngác.
“Em sẽ biết ngay thôi. Alan, em còn ngây thơ lắm. Có một số người chỉ có thể lợi dụng, đừng bao giờ tin tưởng họ.”
Mỗi khi ra ngoài Andemund thường có sĩ quan đi theo hộ tống, rất ít khi tôi thấy anh ấy đi một mình, lần này kể như một trong những cơ hội hiếm hoi ấy. Hôm nay không có Peter, Andemund lái xe, tôi ngồi ghế sau. Xe lăn bánh trở lại bệnh viện Thánh Marianne.
Lúc xuống xe anh ấy siết chặt tay tôi như thể muốn nói với tôi rằng có anh ấy ở bên tôi sẽ được an toàn, chuyện lần trước tuyệt đối không thể tái diễn nữa.
Bọn tôi không vào khu nhà chính của bệnh viện mà đi vòng sang tòa nhà phụ sơn màu kem ngả vàng cạnh đó. Nơi này trông còn quy củ hơn, lúc qua cửa có cả cảnh sát bồng súng đứng gác yêu cầu kiểm tra giấy tờ. Arnold dẫn tôi vào một căn phòng trên lầu hai, bảo tôi nhận diện hai người.
Nếu không nhờ vết sẹo dài trên mặt có lẽ tôi đã không nhận ra họ chính là hai kẻ xâm phạm mình trong hẻm lần trước. Lúc này trông họ hết sức suy sụp, mặt mày tái nhợt, môi khô nứt nẻ, cả hai đều ngồi bó gối sau tấm lưới sắt chăng ngang căn phòng.
Tôi nhìn thật kĩ rồi mới nói: “Đúng là họ.”
“Vậy là không bắt lầm rồi.” Andemund khinh miệt nhìn hai kẻ đó: “Người thường xuyên dùng súng không nhiều, bản thân là đồng tính luyến ái cũng hiếm, biết quan hệ giữa tôi và Alan càng hiếm hơn, mặt lại có sẹo dao chém thì tìm dễ thôi.”
Gã đàn ông mang sẹo trên má phải nhìn thấy tôi, đột nhiên gương mặt anh ta trở nên méo mó. Anh ta chồm tới bám lấy tấm lưới sắt, gào lên: “Đừng nói là tôi, làm ơn đừng nói là tôi! Tôi van ngài đấy, làm ơn cứu tôi với! Làm ơn tha cho tôi! Tất cả là do ngài Lindon sai bọn tôi làm mà!!”
Andemund nói cho tôi biết hai người này là gián điệp cấp thấp của MI-6, có người bỏ tiền mướn bọn họ theo dõi tôi rồi gây chuyện gán cho tôi tội đồng tính luyến ái.
Kết cục là họ bị xử lý trong im lặng, còn xử lý về tinh thần hay thể xác thì Andemund không nói với tôi. Nhưng tôi biết chắc lệnh thanh trừng bọn họ đã được ký giấy trắng mực đen và đang nằm trong tay cô trợ lý Annie của anh ấy.
“Là Lindon sai họ hại em sao?”
Tôi còn định hỏi nữa nhưng Andemund đã dẫn tôi ra khỏi phòng: “Không nhiều người có thể tiếp xúc với gián điệp trong nội bộ bọn anh, cậu ta là một trong số đó, tiếc là thủ đoạn còn quá vụng về.”
Phòng vừa xong hẳn là phòng thẩm vấn được sửa sang lại, sát cạnh đó là một gian phòng khá trống trải, chính giữa chỉ kê một bàn mổ, xung quanh là dụng cụ phẫu thuật được phủ vải trông như thể chúng đã bị bỏ hoang ở đây hàng năm trời.
Lindon đứng giữa phòng, đơn độc trong không gian hiu quạnh cuối thu.
Khoảnh khắc chạm mặt tôi, cậu ta cứ như nhìn thấy quỷ, hai chân run rẩy thối lui vào góc tường, đôi mắt tràn ngập kinh hoàng.
Lâu lắm rồi không gặp, giờ cậu ta trở lại đúng với bộ dạng trong ký ức của tôi, một cái áo chẽn khoác xộc xệch ra ngoài áo len, đầu tóc rối bù, những đốm tàn nhang hiện rõ mồn một vì làn da càng lúc càng trắng nhợt.
Không biết Andemund đã thẩm vấn bằng cách nào để khiến tinh thần cậu ta sa sút đến thế.
Tiếng Andemund lại vang lên bên tai tôi. Từng chữ anh ấy nói ra bằng giọng du dương êm ái đột nhiên trở nên thực tàn khốc giữa căn phòng này: “Lindon, trước khi bước vào trang trại Plymton cậu đã tuyên thệ sẽ đặt lợi ích của nước Anh lên trên tất cả, cậu nhớ chứ? Chính xác là từ khi nào cậu mua chuộc được Z và lén cài người của mình vào đây?”
Lindon đỏ mắt trừng trừng nhìn tôi: “Nếu không có Alan! Nếu không có Alan thì chính tôi là người đã giải “Mê”! Thượng Đế không công bằng! Tại sao nó chẳng cần cố gắng mà lại đạt được thành quả như thế!!” cậu ta lao về phía tôi nhưng Andemund túm được cổ áo Lindon ngay tức khắc rồi quật ngã cậu ta vào tường.
“Nếu không có Alan cậu chẳng là gì cả.” Andemund cúi xuống nhìn cậu ta.
Lindon từ từ bình tĩnh lại nhưng hai mắt đã vằn đầy tơ máu.
“Alan, tao căm ghét mày. Tao muốn PSC khiến cho cả đời mày không thể tính nổi một phép trừ đơn giản nhất nữa!”
Tôi đứng chôn chân tại chỗ, cảm giác như trời đất đảo điên trước mắt mình: “Tôi đã tưởng chúng ta là bạn. Sau khi chuyện đó xảy ra… tôi còn cố gọi nhờ cậu giúp đỡ.”
Giọng Lindon pha lẫn một tia trào phúng: “Phải, trước khi mày giải được “Mê”, chúng ta đúng là bạn.”
Cậu ta vụt quay sang Andemund, van vỉ: “Ngài Garcia, ngài đã nói… ngài rất thích tôi mà. Giờ tôi… sẽ thế nào đây?”
Andemund vẫn nhìn cậu ta, anh ấy nhẹ nhàng hỏi: “Phân tích 1203125000 ra thừa số nguyên tố được bao nhiêu?”
Lindon ngẩn ra một hồi rồi chậm chạp đáp: “2, 2, 2, 5, 5, 7, 11… 5.”
“Hết chưa?” Andemund hỏi.
“Hết rồi.”
Andemund vỗ vai cậu ta, nói như tán đồng: “Phải, cậu hết rồi đấy.”
Đó có lẽ là con tính cuối cùng trong đời Lindon. Ra đến cửa tôi đã thấy Arnold đang chờ sẵn bên ngoài. Anh ta mặc áo khoác trắng, tay đeo găng cao su, thơ thẩn đứng dựa tường hành lang coi bộ rất ung dung. Tôi để ý thấy dưới chân anh ta là một cái hòm thiếc xách tay khá lớn, bốn góc viền bằng kim loại màu bạc. Có bốn người đàn ông đứng chực cạnh anh ta, lúc Andemund đi qua tự khắc họ ưỡn ngực chào ảnh.
Andemund bước qua họ rồi mới quay lại gật đầu với Arnold: “Vào được rồi.”
Một trong bốn người đàn ông lẳng lặng mở cửa phòng Lindon cho Arnold đi vào.
Ngay trước lúc bước qua cửa tự dưng anh ta móc cái đồng hồ quả quýt màu bạc trong túi ra lắc lắc trước mắt tôi rồi ném cho tôi một cái nhìn đầy ngụ ý, đại để là muốn cảnh cáo tôi chớ có mê muội vì Andemund nữa.
Từ ngày hôm đó tôi không hề gặp lại Lindon.
Tôi không biết Arnold đã làm gì cậu ta, anh ta cũng không bao giờ định cho tôi biết. Anh ta chỉ nói: “Bé Alan ơi, ấy không phải chuyện cậu nên quan tâm đâu. Lợi dụng quyền lực của tổ chức là vấn đề nghiêm trọng, cậu ta phải bị xử lý thôi.”
Cùng biến mất trong những ngày ấy còn cả tên gián điệp có liên hệ với Lindon.
Người phụ trách Z bị buộc phải rời chức vụ, nhưng rất lâu sau này tôi nghe nói kể từ lúc đó người nhà không hề gặp lại ông ta.
Tôi hỏi Andemund: “Em biết nhiều phết đấy chứ, anh tính bảo Arnold tẩy não em hả?”
Ảnh đang lái xe đưa tôi về, nghe vậy chỉ cười lắc đầu: “Nếu định làm vậy anh đã không bảo Arnold đến nói chuyện với em. Anh tự hào về em. Phương trình giải “Mê” của em Lindon đưa cho anh thực sự kiệt xuất.”
Lâu lắm rồi tôi không ngồi cùng xe với anh ấy, tự dưng có cảm giác như thời gian đang quay ngược lại. Anh ấy vẫn là giáo sư thỉnh giảng ở Cambridge năm nào, tôi thì là gã sinh viên bùng học vô tội vạ còn ham hố chạy theo tán tỉnh ảnh. Chỉ là nụ cười của anh ấy giờ pha lẫn đôi chút mệt mỏi, mà tôi thì đã tốt nghiệp mùa hè năm nay mất rồi.
Xe quẹo ngang quẹo dọc trên đường London, phố phường lúc này chìm trong không khí âm u xám ngắt. Chúng tôi đi ngang qua hai bãi diễn tập chữa cháy, thấy một đội lính đang phát mặt nạ phòng độc cho dân chúng, có người nói vũ khí của Quốc xã chứa cả chất độc thần kinh. Người thì xếp hàng dài lê thê trước cửa hàng bách hóa.
Tôi nói: “Không có chiến tranh thì tốt biết mấy.”
Andemund dừng xe ngoài cửa bách hóa, anh ấy ngẩng đầu lên thở dài: “Rồi sẽ kết thúc thôi.”
Tiếng thở dài của anh ấy nghe mới thật chán chường, giống như một diễn viên biết rõ rằng vở diễn rồi sẽ hạ màn, nhưng không sao dám chắc mình còn có mặt trong những người sẽ bước lên sân khấu cúi chào cảm ơn khán giả hay không.
“Ngày trước ở Cambridge em bỏ học nhiều như vậy, anh không nghĩ em lại có thể đến được bước này. Chưa từng được huấn luyện mật mã một cách chính quy nhưng từ lần đầu tiên em đã giải được mật mã cấp cao. Đến lúc này thì… Alan à, em tiến bộ quá nhanh, nhanh đến mức chính anh cũng phải hoảng sợ. Anh biết chỉ bằng năng lực của Lindon cậu ta không thể làm được nhiều đến thế, sau lưng cậu ta nhất định có người khác. Nhưng anh không ngờ là em.” Anh ấy nhìn tôi rồi chậm rãi lắc đầu: “Anh thực vui mừng vì tìm được người hiểu được mình, anh cũng không thể quên những ngày chúng ta cùng thảo luận về “Mê”… nhưng anh phải đẩy em ra khỏi vòng xoáy này. Con đường phía trước quá đen tối, anh tình nguyện bước tiếp một mình.”
Những lời của Andemund khiến tôi chợt nghĩ về cha mẹ mình. Địa vị của mẹ trong giới học thuật cao hơn rất rất nhiều so với một nhân viên cục mật mã như cha nhưng bà đã rời bỏ số học để bắt đầu nghiên cứu mật mã cùng cha tôi. Đến giờ phút này tôi vẫn còn nhớ vóc dáng tao nhã của bà khi ngồi trò chuyện cùng cha bên lò sưởi, gọi là một người vợ dịu hiền chi bằng nói rằng họ là đôi bạn tâm giao.
Tôi nghĩ Andemund cũng khao khát có một người như thế. Một người có thể tán thưởng lối tư duy của anh ấy, có thể đưa ra những ý tưởng độc đáo khác biệt, có thể đồng hành với anh ấy trong hành trình cô độc này.
Tôi đã nghĩ rằng, nếu anh ấy cho tôi cơ hội, tôi sẵn lòng đi cùng anh ấy đến cuối con đường.
Andemund nói rất dịu dàng, nhưng tôi hiểu đó là một lời cảnh cáo. Anh ấy đưa tôi đi chứng kiến kết cục của Lindon là muốn nói với tôi rằng một khi không được tin tưởng nữa, rất có thể tôi cũng phải chịu hậu quả như thế. Tôi giải được “Mê”, nhưng tôi phải bứt mình ra khỏi tất cả chuyện này.
Nhưng rốt cuộc tôi đi không thoát.
Arnold nói cho tôi biết, Andemund bị cách ly thẩm tra.
Lần này là lệnh của tổng cục tình báo, không ai biết nguyên nhân của việc thẩm tra này là gì nhưng họ báo trước rằng anh ấy sẽ phải vắng mặt một thời gian dài. Không lâu sau khi anh ấy rời khỏi Plymton theo lệnh thẩm tra, tôi nhận được thư mời từ cục tình báo.
Ngài Alan Castor thân mến,
Chúng tôi may mắn được biết đến quá trình giải “Mê” xuất chúng của ngài. Nếu ngài sẵn lòng cống hiến cho sứ mệnh kết thúc cuộc chiến Quốc xã đang tàn phá khắp Châu Âu, mời ngài tới số 367 đại lộ Hoàng Hậu vào ngày X tháng X năm X, gặp ngài Broom.
Mong được gặp ngài.
Kính thư: C
Tôi giật mình: “Sao anh biết?”
“Lý thuyết nhóm.” Andemund mỉm cười với tôi: “Trong những tài liệu Lindon đưa cho anh suốt quá trình giải mã có rất nhiều điểm đã được đề cập trong luận văn của em. Bản thảo luận văn em gửi Dr. Watts ở Hiệp hội toán học London hồi ấy em nhớ không?”
Đương nhiên là tôi nhớ, năm ấy là mùa đông đầu tiên kể từ khi chúng tôi chia tay, tuyết mới rơi lất phất. Tôi tới tận nhà giáo sư ở phía Tây London để gửi bản thảo rồi gặp anh ấy, anh ấy còn cứng rắn cấm tôi không được tham gia mấy hội nghiên cứu số học nữa.
“Anh xem luận văn của em à?”
Andemund gật đầu: “Từng trang một.”
“Lúc đó anh chỉ mới nghi ngờ, vì em và Lindon là bạn bè, không loại trừ khả năng cậu ta cũng được đọc bản thảo của em. Chỉ đến lần này thẩm vấn cậu ta anh mới hoàn toàn chắc chắn.”
“Thẩm vấn cậu ta sao?” tôi ngơ ngác.
“Em sẽ biết ngay thôi. Alan, em còn ngây thơ lắm. Có một số người chỉ có thể lợi dụng, đừng bao giờ tin tưởng họ.”
Mỗi khi ra ngoài Andemund thường có sĩ quan đi theo hộ tống, rất ít khi tôi thấy anh ấy đi một mình, lần này kể như một trong những cơ hội hiếm hoi ấy. Hôm nay không có Peter, Andemund lái xe, tôi ngồi ghế sau. Xe lăn bánh trở lại bệnh viện Thánh Marianne.
Lúc xuống xe anh ấy siết chặt tay tôi như thể muốn nói với tôi rằng có anh ấy ở bên tôi sẽ được an toàn, chuyện lần trước tuyệt đối không thể tái diễn nữa.
Bọn tôi không vào khu nhà chính của bệnh viện mà đi vòng sang tòa nhà phụ sơn màu kem ngả vàng cạnh đó. Nơi này trông còn quy củ hơn, lúc qua cửa có cả cảnh sát bồng súng đứng gác yêu cầu kiểm tra giấy tờ. Arnold dẫn tôi vào một căn phòng trên lầu hai, bảo tôi nhận diện hai người.
Nếu không nhờ vết sẹo dài trên mặt có lẽ tôi đã không nhận ra họ chính là hai kẻ xâm phạm mình trong hẻm lần trước. Lúc này trông họ hết sức suy sụp, mặt mày tái nhợt, môi khô nứt nẻ, cả hai đều ngồi bó gối sau tấm lưới sắt chăng ngang căn phòng.
Tôi nhìn thật kĩ rồi mới nói: “Đúng là họ.”
“Vậy là không bắt lầm rồi.” Andemund khinh miệt nhìn hai kẻ đó: “Người thường xuyên dùng súng không nhiều, bản thân là đồng tính luyến ái cũng hiếm, biết quan hệ giữa tôi và Alan càng hiếm hơn, mặt lại có sẹo dao chém thì tìm dễ thôi.”
Gã đàn ông mang sẹo trên má phải nhìn thấy tôi, đột nhiên gương mặt anh ta trở nên méo mó. Anh ta chồm tới bám lấy tấm lưới sắt, gào lên: “Đừng nói là tôi, làm ơn đừng nói là tôi! Tôi van ngài đấy, làm ơn cứu tôi với! Làm ơn tha cho tôi! Tất cả là do ngài Lindon sai bọn tôi làm mà!!”
Andemund nói cho tôi biết hai người này là gián điệp cấp thấp của MI-6, có người bỏ tiền mướn bọn họ theo dõi tôi rồi gây chuyện gán cho tôi tội đồng tính luyến ái.
Kết cục là họ bị xử lý trong im lặng, còn xử lý về tinh thần hay thể xác thì Andemund không nói với tôi. Nhưng tôi biết chắc lệnh thanh trừng bọn họ đã được ký giấy trắng mực đen và đang nằm trong tay cô trợ lý Annie của anh ấy.
“Là Lindon sai họ hại em sao?”
Tôi còn định hỏi nữa nhưng Andemund đã dẫn tôi ra khỏi phòng: “Không nhiều người có thể tiếp xúc với gián điệp trong nội bộ bọn anh, cậu ta là một trong số đó, tiếc là thủ đoạn còn quá vụng về.”
Phòng vừa xong hẳn là phòng thẩm vấn được sửa sang lại, sát cạnh đó là một gian phòng khá trống trải, chính giữa chỉ kê một bàn mổ, xung quanh là dụng cụ phẫu thuật được phủ vải trông như thể chúng đã bị bỏ hoang ở đây hàng năm trời.
Lindon đứng giữa phòng, đơn độc trong không gian hiu quạnh cuối thu.
Khoảnh khắc chạm mặt tôi, cậu ta cứ như nhìn thấy quỷ, hai chân run rẩy thối lui vào góc tường, đôi mắt tràn ngập kinh hoàng.
Lâu lắm rồi không gặp, giờ cậu ta trở lại đúng với bộ dạng trong ký ức của tôi, một cái áo chẽn khoác xộc xệch ra ngoài áo len, đầu tóc rối bù, những đốm tàn nhang hiện rõ mồn một vì làn da càng lúc càng trắng nhợt.
Không biết Andemund đã thẩm vấn bằng cách nào để khiến tinh thần cậu ta sa sút đến thế.
Tiếng Andemund lại vang lên bên tai tôi. Từng chữ anh ấy nói ra bằng giọng du dương êm ái đột nhiên trở nên thực tàn khốc giữa căn phòng này: “Lindon, trước khi bước vào trang trại Plymton cậu đã tuyên thệ sẽ đặt lợi ích của nước Anh lên trên tất cả, cậu nhớ chứ? Chính xác là từ khi nào cậu mua chuộc được Z và lén cài người của mình vào đây?”
Lindon đỏ mắt trừng trừng nhìn tôi: “Nếu không có Alan! Nếu không có Alan thì chính tôi là người đã giải “Mê”! Thượng Đế không công bằng! Tại sao nó chẳng cần cố gắng mà lại đạt được thành quả như thế!!” cậu ta lao về phía tôi nhưng Andemund túm được cổ áo Lindon ngay tức khắc rồi quật ngã cậu ta vào tường.
“Nếu không có Alan cậu chẳng là gì cả.” Andemund cúi xuống nhìn cậu ta.
Lindon từ từ bình tĩnh lại nhưng hai mắt đã vằn đầy tơ máu.
“Alan, tao căm ghét mày. Tao muốn PSC khiến cho cả đời mày không thể tính nổi một phép trừ đơn giản nhất nữa!”
Tôi đứng chôn chân tại chỗ, cảm giác như trời đất đảo điên trước mắt mình: “Tôi đã tưởng chúng ta là bạn. Sau khi chuyện đó xảy ra… tôi còn cố gọi nhờ cậu giúp đỡ.”
Giọng Lindon pha lẫn một tia trào phúng: “Phải, trước khi mày giải được “Mê”, chúng ta đúng là bạn.”
Cậu ta vụt quay sang Andemund, van vỉ: “Ngài Garcia, ngài đã nói… ngài rất thích tôi mà. Giờ tôi… sẽ thế nào đây?”
Andemund vẫn nhìn cậu ta, anh ấy nhẹ nhàng hỏi: “Phân tích 1203125000 ra thừa số nguyên tố được bao nhiêu?”
Lindon ngẩn ra một hồi rồi chậm chạp đáp: “2, 2, 2, 5, 5, 7, 11… 5.”
“Hết chưa?” Andemund hỏi.
“Hết rồi.”
Andemund vỗ vai cậu ta, nói như tán đồng: “Phải, cậu hết rồi đấy.”
Đó có lẽ là con tính cuối cùng trong đời Lindon. Ra đến cửa tôi đã thấy Arnold đang chờ sẵn bên ngoài. Anh ta mặc áo khoác trắng, tay đeo găng cao su, thơ thẩn đứng dựa tường hành lang coi bộ rất ung dung. Tôi để ý thấy dưới chân anh ta là một cái hòm thiếc xách tay khá lớn, bốn góc viền bằng kim loại màu bạc. Có bốn người đàn ông đứng chực cạnh anh ta, lúc Andemund đi qua tự khắc họ ưỡn ngực chào ảnh.
Andemund bước qua họ rồi mới quay lại gật đầu với Arnold: “Vào được rồi.”
Một trong bốn người đàn ông lẳng lặng mở cửa phòng Lindon cho Arnold đi vào.
Ngay trước lúc bước qua cửa tự dưng anh ta móc cái đồng hồ quả quýt màu bạc trong túi ra lắc lắc trước mắt tôi rồi ném cho tôi một cái nhìn đầy ngụ ý, đại để là muốn cảnh cáo tôi chớ có mê muội vì Andemund nữa.
Từ ngày hôm đó tôi không hề gặp lại Lindon.
Tôi không biết Arnold đã làm gì cậu ta, anh ta cũng không bao giờ định cho tôi biết. Anh ta chỉ nói: “Bé Alan ơi, ấy không phải chuyện cậu nên quan tâm đâu. Lợi dụng quyền lực của tổ chức là vấn đề nghiêm trọng, cậu ta phải bị xử lý thôi.”
Cùng biến mất trong những ngày ấy còn cả tên gián điệp có liên hệ với Lindon.
Người phụ trách Z bị buộc phải rời chức vụ, nhưng rất lâu sau này tôi nghe nói kể từ lúc đó người nhà không hề gặp lại ông ta.
Tôi hỏi Andemund: “Em biết nhiều phết đấy chứ, anh tính bảo Arnold tẩy não em hả?”
Ảnh đang lái xe đưa tôi về, nghe vậy chỉ cười lắc đầu: “Nếu định làm vậy anh đã không bảo Arnold đến nói chuyện với em. Anh tự hào về em. Phương trình giải “Mê” của em Lindon đưa cho anh thực sự kiệt xuất.”
Lâu lắm rồi tôi không ngồi cùng xe với anh ấy, tự dưng có cảm giác như thời gian đang quay ngược lại. Anh ấy vẫn là giáo sư thỉnh giảng ở Cambridge năm nào, tôi thì là gã sinh viên bùng học vô tội vạ còn ham hố chạy theo tán tỉnh ảnh. Chỉ là nụ cười của anh ấy giờ pha lẫn đôi chút mệt mỏi, mà tôi thì đã tốt nghiệp mùa hè năm nay mất rồi.
Xe quẹo ngang quẹo dọc trên đường London, phố phường lúc này chìm trong không khí âm u xám ngắt. Chúng tôi đi ngang qua hai bãi diễn tập chữa cháy, thấy một đội lính đang phát mặt nạ phòng độc cho dân chúng, có người nói vũ khí của Quốc xã chứa cả chất độc thần kinh. Người thì xếp hàng dài lê thê trước cửa hàng bách hóa.
Tôi nói: “Không có chiến tranh thì tốt biết mấy.”
Andemund dừng xe ngoài cửa bách hóa, anh ấy ngẩng đầu lên thở dài: “Rồi sẽ kết thúc thôi.”
Tiếng thở dài của anh ấy nghe mới thật chán chường, giống như một diễn viên biết rõ rằng vở diễn rồi sẽ hạ màn, nhưng không sao dám chắc mình còn có mặt trong những người sẽ bước lên sân khấu cúi chào cảm ơn khán giả hay không.
“Ngày trước ở Cambridge em bỏ học nhiều như vậy, anh không nghĩ em lại có thể đến được bước này. Chưa từng được huấn luyện mật mã một cách chính quy nhưng từ lần đầu tiên em đã giải được mật mã cấp cao. Đến lúc này thì… Alan à, em tiến bộ quá nhanh, nhanh đến mức chính anh cũng phải hoảng sợ. Anh biết chỉ bằng năng lực của Lindon cậu ta không thể làm được nhiều đến thế, sau lưng cậu ta nhất định có người khác. Nhưng anh không ngờ là em.” Anh ấy nhìn tôi rồi chậm rãi lắc đầu: “Anh thực vui mừng vì tìm được người hiểu được mình, anh cũng không thể quên những ngày chúng ta cùng thảo luận về “Mê”… nhưng anh phải đẩy em ra khỏi vòng xoáy này. Con đường phía trước quá đen tối, anh tình nguyện bước tiếp một mình.”
Những lời của Andemund khiến tôi chợt nghĩ về cha mẹ mình. Địa vị của mẹ trong giới học thuật cao hơn rất rất nhiều so với một nhân viên cục mật mã như cha nhưng bà đã rời bỏ số học để bắt đầu nghiên cứu mật mã cùng cha tôi. Đến giờ phút này tôi vẫn còn nhớ vóc dáng tao nhã của bà khi ngồi trò chuyện cùng cha bên lò sưởi, gọi là một người vợ dịu hiền chi bằng nói rằng họ là đôi bạn tâm giao.
Tôi nghĩ Andemund cũng khao khát có một người như thế. Một người có thể tán thưởng lối tư duy của anh ấy, có thể đưa ra những ý tưởng độc đáo khác biệt, có thể đồng hành với anh ấy trong hành trình cô độc này.
Tôi đã nghĩ rằng, nếu anh ấy cho tôi cơ hội, tôi sẵn lòng đi cùng anh ấy đến cuối con đường.
Andemund nói rất dịu dàng, nhưng tôi hiểu đó là một lời cảnh cáo. Anh ấy đưa tôi đi chứng kiến kết cục của Lindon là muốn nói với tôi rằng một khi không được tin tưởng nữa, rất có thể tôi cũng phải chịu hậu quả như thế. Tôi giải được “Mê”, nhưng tôi phải bứt mình ra khỏi tất cả chuyện này.
Nhưng rốt cuộc tôi đi không thoát.
Arnold nói cho tôi biết, Andemund bị cách ly thẩm tra.
Lần này là lệnh của tổng cục tình báo, không ai biết nguyên nhân của việc thẩm tra này là gì nhưng họ báo trước rằng anh ấy sẽ phải vắng mặt một thời gian dài. Không lâu sau khi anh ấy rời khỏi Plymton theo lệnh thẩm tra, tôi nhận được thư mời từ cục tình báo.
Ngài Alan Castor thân mến,
Chúng tôi may mắn được biết đến quá trình giải “Mê” xuất chúng của ngài. Nếu ngài sẵn lòng cống hiến cho sứ mệnh kết thúc cuộc chiến Quốc xã đang tàn phá khắp Châu Âu, mời ngài tới số 367 đại lộ Hoàng Hậu vào ngày X tháng X năm X, gặp ngài Broom.
Mong được gặp ngài.
Kính thư: C