Chương : 16
Rachel Sexton đã bay theo hướng bắc được hơn một giờ đồng hồ.
Trong suốt hành trình, thay vì thấy quang cảnh của New Foundland, cô chỉ nhìn thấy duy nhất một thứ dưới cánh chiếc máy bay F14: nước.
Tại sao lại phải là nước nhỉ? Rachel nhăn nhó thầm hỏi. Hồi lên bảy, Rachel đã bị ngã nhào xuống hồ nước đóng băng trong khi chơi trượt băng. Bị làn nước giá buốt bao trùm, cô nghĩ mình chắc chắn sẽ phải chết. Nhưng rồi nhờ đôi cánh tay mạnh mẽ của mẹ cô, thân thể ướt mèm của Rachel đã được kéo lên bờ. Kể từ sự kiện hãi hùng đó, Rachel luôn phải đấu tranh với cảm giác sợ hãi vô cớ - sợ những vùng nước rộng, đặc biệt là nước lạnh. Hôm nay, khi trong tầm mắt không có gì ngoài cực bắc tít tận cuối chân trời, nỗi sự ấy đang bủa vây cô.
Đến khi viên phi công kiểm tra lại vị trí của chiếc máy bay bằng liên lạc với sân bay Thule thì Rachel mới biết mình đã đi xa đến mức nào. Qua cả vòng chí tuyến rồi cơ ư? Biết sự thật, cô càng cảm thấy bất an hơn. Họ đưa mình đi đâu thế nhỉ? NASA đã tìm thấy cái gì?
Một lúc sau, trên mặt nước màu xanh xám bên dưới đã thấy có muôn vàn chấm trắng ảm đạm.
Lần duy nhất trong đời Rachel trông thấy núi băng là sáu năm trước, khi mẹ cô ra sức thuyết phục cô cùng bà tham gia chuyến thám hiểm Alaska. Rachel đã lựa chọn không biết bao nhiêu khu nghỉ mát trên đất liền, nhưng mẹ cô vẫn nhất mực không đổi ý. Bà nói: "Rachel, con yêu của mẹ, hai phần ba hành tinh này là nước, cho nên sớm hay muộn gì con sẽ phải tập đối mặt với nó". Bà Sexton vốn là một thiếu phụ kiên định của vùng New Engiand, thuộc kiểu người luôn muốn con cái họ lớn lên phải kiên cường và mạnh mẽ.
Chuyến thám hiểm ấy là dịp cuối cùng hai mẹ con được ở bên nhau.
Catherine Wenworth Sexton. Rachel chợt cảm thấy mình đơn côi biết mấy. Bao ký ức chợt ào ạt ùa về, như những cơn gió quất bên ngoài ca bin máy bay, như bao lần trước, lại một lần nữa kỷ niệm đay ắp trong tâm trí Rachel. Lần cuối cùng hai mẹ con cô nói chuyện với nhau là trên điện thoại. Sáng sớm ngày lễ Tạ ơn.
- Con xin lỗi mẹ, - cô gọi về từ sân bay O Hare tuyết phủ - con biết gia đình mình bao giờ cũng sum họp vào ngày lễ Tạ ơn, nhưng hôm nay chắc sẽ là lần đầu tiên không được như vậy.
Giọng mẹ cô đầy đau khổ:
- Mẹ mong được gặp con biết chừng nào. Rachel của mẹ.
- Con cũng thế mẹ ạ. Mẹ hãy tưởng tượng con phải ăn đồ ăn liền ở sân bay trong khi mẹ và bố đang thưởng thức món gà tây.
Mẹ cô lặng đi một lúc trên điện thoại.
- Rachel, mẹ định đợi con về nhà mới nói, nhưng cha con nói rằng ông ấy bận quá nên năm nay không về nghỉ ở nhà được. Ông ấy sẽ ở lại khách sạn của mình ở D.C, trong suốt kỳ nghỉ.
- Sao cơ? - Sự ngạc nhiên của Rachel ngay lập tức chuyển thành phẫn nộ. - Nhưng hôm nay là ngày lễ Tạ ơn, Thượng nghị viện có họp đâu! Bố chỉ cách nhà có hai giờ lái xe thôi mà. Bố phải về với mẹ mới đúng chứ!
- Mẹ biết. Nhưng ông ấy nói là mệt lắm nên không thể lái xe được ông ấy đã quyết định sẽ dành kỳ nghỉ để giải quyết những công việc tồn đọng.
Công việc ư? Rachel thấy nghi ngờ. Rất có thể là ngài Thượng nghị sĩ đang hú hí với người đàn bà nào đó. Sự không chung thuỷ của ông ta, dù kín đáo, vẫn kéo dài từ nhiều năm nay. Bà Sexton không phải là người không biết gì, nhưng tất cả những vụ tình ái của ông ta đều được sắp xếp với những chứng cứ ngoại phạm và thái độ phẫn nộ sâu sắc khi có ai đả động đến chuyện ông ta là người chồng không chung thuỷ. Cuối cùng, bà Sexton chẳng còn bỉết làm gì khác ngoài việc nhắm mắt làm ngơ và gắng chôn chặt nỗi đau của mình. Dù Rachel vẫn khuyến khích mẹ cô tiến hành thủ tục li dị, nhưng Katherin Wenworth Sexton là người đã nói là làm. Bà nói với Rachel: "Chỉ cái chết mới chia lìa được mẹ và ông ấy. Nhờ ông ấy mẹ mới có được con - cô con gái vô cùng kiều diễm - mẹ chịu ơn ông ấy. Sẽ có ngày ông ấy phải sám hối trước Đấng tối cao về điều đó". Lúc ấy, tại sân bay, Rachel giận sôi lên.
- Nhưng thế thì mẹ sẽ phải cô đơn trong ngày lễ Tạ ơn!
Cô cảm thấy kinh tởm. Việc Thượng nghị sĩ bỏ bê gia đình trong ngày lễ Tạ ơn là một bước suy đồi so với sự tồi tệ trước đó của ông ta.
- Không sao. - Giọng mẹ cô buồn nhưng cương quyết. - Không thể để những đồ ăn này bị hỏng được. Mẹ sẽ lái xe đến nhà dì Ann. Năm nào dì ấy cũng mời nhà mình đến dự lễ Tạ ơn Mẹ gọi cho dì ấy ngay đây.
Rachel vẫn chẳng cảm thấy bớt áy náy được là bao.
- Thôi được. Con sẽ về nhà ngay lập tức đây. Con yêu mẹ lắm.
- Chúc con yêu bay an toàn.
Mười giờ rưỡi đêm hôm ấy, cuối cùng thì chiếc tắc xi cũng đưa Rachel ngoặt lên, con đường rải sỏi và tiến vào ngôi biệt thự sang trọng của nhà Sexton. Rachel biết ngay đã có chuyện chẳng lành.
Xe cảnh sát đỗ trên lối vào. Có cả xe hòm của báo chí. Cả ngôi nhà sáng trưng. Rachel lao vào nhà, lòng đau như xé.
Một nhân viên cảnh sát bang Virginia gặp cô ở ngưỡng cửa. Trông anh ta đầy vẻ hệ trọng. Nhưng chẳng cần anh ta phải nói gì hết. Rachel biết đã có một vụ tai nạn.
- Do mưa và băng tuyết nên tuyến đường 25 trở nên rất trơn. - Anh ta nói. - Xe của mẹ cô bị văng vào khe núi. Bà mất ngay tại chỗ do va đập mạnh.
Rachel thấy toàn thân tê dại. Cha cô đã về nhà ngay khi nhận được tin và giờ đang tổ chức cuộc họp báo nhỏ trong phòng khách.
Với vẻ mặt đau khổ, ông ta tuyên bố rằng phu nhân của mình đã gặp tai nạn trên đường về nhà sau khi cùng gia đình đi dự tiệc nhân ngày lễ.
Đứng ở một bên chái nhà, Rachel khóc ròng rã.
- Ước nguyện duy nhất của tôi là - nước mắt lưng tròng, cha cô tuyên bố với các nhà báo - là tôi có thể về nhà với bà ấy trong kỳ nghỉ này. Đáng ra tôi đã không bao giờ được để điều này xảy ra.
Đáng ra ông phải nghĩ được điều đó từ nhiều năm trước rồi kia. Rachel khóc nức lên, và mỗi lúc một thêm căm ghét cha mình. Từ đó trở đi, Rachel sống tách biệt hẳn. Nhưng ngài Thượng nghị sĩ dường như chẳng nhận ra điều đó. Ông mải bận rộn biến cái chết của vợ mình thành một cơ hội để trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Những lá phiếu giành được nhờ sự cảm thông hoá ra không hề ít.
Tai ác thay, ba năm sau sự kiện ấy, dù ở cách rất xa, ngài Thượng nghị sĩ vẫn khiến cho con gái mình cảm thấy côi cút. Do chiến dịch tranh cử Tổng thống của cha cô, Rachel buộc phải gác lại giấc mơ tìm người đàn ông phù hợp và gây dựng mái ấm gia đình. Cô thà sống tách biệt hẳn khỏi xã hội còn hơn trở thành đối tượng săn đón của vô số những kẻ khát quyền lực đang săn lùng cơ hội trở thành vị hôn thê của cô con gái âu sầu của ngài Tổng thống tiềm năng.
Bên ngoài cửa sổ chiếc phản lực F14, bóng đêm đang từ từ dâng lên. Giờ đang là cuối mùa đông ở vùng cực - mùa của đêm đen.
Rachel nhận thấy chiếc phản lực đang bay vào vùng bóng đêm vĩnh cửu.
Chỉ vài phút sau, Mặt trời đã biến mất hẳn phía sau đường chân trời. Họ tiếp tục bay về phương Bắc, và mảnh trăng lưỡi liềm vằng vặc hiện ra, lơ lửng trên bầu trời Bắc cực lạnh giá. Tít bên dưới, là những con sóng bạc đầu mờ ảo, những tảng băng trôi trông như những viên kim cương được đính trên tấm lưới mắt cáo màu sẫm.
Cuối cùng thì Rachel cũng lờ mờ nhìn thấy đất liền. Nhưng nó rất khác những gì cô tưởng tượng. Xa xa dưới cánh máy bay là một dải núi tuyết phủ.
Núi Rachel băn khoăn tự hỏi.
- Phía bắc đảo Greenland có núi hay sao?
- Dĩ nhiên rồi. - Viên phi công trả lời, anh ta cũng có vẻ ngạc nhiên chẳng kém gì cô.
Khi chiếc F14 chúi đầu xuống đất, Rachel rơi vào cảm giác không trọng lượng vô cùng khó chịu. Dù hai tai gần như ù đặc, cô vẫn nghe thấy tiếng thiết bị điện tử kêu bíp bíp trong khoang lái. Rõ ràng là viên phi công đã bắt được liên lạc với thiết bị dẫn đường và đang làm theo chỉ dẫn từ mặt đất.
Xuống đến dưới độ cao ba ngàn foot, Rachel chăm chú nhìn quang cảnh mặt đất dưới ánh trăng. Dưới chân rặng núi là một dải đất phẳng khá rộng. Dải đất này kéo dài khoảng mười dặm về phía biển. ở tận cùng của dải đất bằng ấy là mỏm băng dựng đứng nhô ra biển.
Lần đầu tiên Rachel nhìn thấy kiểu địa hình này. Thật đặc biệt.
Lúc đầu cô tưởng mình bị ảo giác do ánh trăng. Rachel nhìn những mỏm tuyết, không dám tin vào mắt mình. Càng xuống thấp, cảnh vật càng hiện ra rõ ràng hơn.
Lạy Chúa, đây là đâu?
Dải đất bằng bên dưới có những đường sọc, như thế người ta đã dùng sơn màu bạc để vẽ trên tuyết ba đường sọc thật lớn.
Những vệt sáng lấp lánh này chạy song song với mỏm đá dọc theo bờ biến. Xuống đến độ cao năm trăm foot thì ảo giác ấy mới biến mất. Trong lòng ba con mương sâu với bề ngang rộng khoảng ba mươi mét, nước đóng băng. Chúng nằm vắt ngang dải đất bằng.
Những dải màu trắng giữa những dòng kênh ấy trông chẳng khác gì những con đê bằng tuyết.
Bay đến dải đất bằng đó, máy bay bắt đầu hạ độ cao và lắc.
Rachel nghe thấy tiếng phanh rít nhưng chẳng nhìn thấy đường băng nào cả. Trong khi viên phi công đang tập trung điều khiển máy bay, Rachel nhòm ra ngoài và trông thấy hai dải sáng lấp lánh hai bên dòng kênh băng trong cùng. Cô kinh hãi khi hiểu ra ý định của viên phi công.
- Chúng ta hạ cánh xuống băng à? - Cô hỏi.
Viên phi công không trả lời. Anh ta còn mải vật lộn với những cơn gió giật. Rachel thấy bụng dạ bị lộn tung lên khi chiếc máy bay giảm tốc độ và hướng về phía con kênh băng. Hai dải đê tuyết hiện ra hai bên thân máy bay, Rachel nín thở. Cô hiểu rằng chỉ một nhầm lẫn nhỏ trong con kênh hẹp này cũng có thể gây ra sự cố chết người.
Chiếc máy bay lắc lư hạ cánh xuống giữa hai dải đê bằng tuyết, và đột ngột ngừng rung lắc. Được dải đê chắn gió, nó tiếp đất êm ái.
Chiếc phi cơ chạy chậm dần. Rachel thở phào. Máy bay chạy thêm khoảng một trăm mét nữa và dừng hẳn ngay trước vệt sơn đỏ chói trên mặt băng.
Chẳng nhìn thấy gì ở bên phải ngoài bức tường tuyết dưới ánh trăng - sườn của con đê tuyết. Bên trái cũng y như vậy. Chỉ có thể nhìn qua cửa chắn gió ở phía trước… và thấy băng hà trải dài vô tận. Cảm tưởng như họ vừa hạ cánh xuống hành tinh chết. Trừ vệt sơn đỏ trên tuyết, không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.
Rồi Rachel nghe thấy từ đằng xa, một chiếc xe đang tiến lại.
Tiếng động cơ inh ỏi. Tiếng ồn mỗi lúc một to dần cho đến khi chiếc xe xuất hiện. Đó là chiếc máy kéo lớn có nhiều bánh đang đi dọc theo con mương về phía họ. Cao và trần trụi, chiếc xe chẳng khác gì một côn trùng phàm ăn to lớn với những cái chân quay trong truyện khoa học viễn tưởng. Ca bin được bố trí cách khá xa khung gầm xe. Rất nhiều đèn pha dưới gầm xe rọi sáng mặt đất.
Chiếc xe lắc mạnh rồi dừng lại ngay cạnh máy bay. Cửa ca bin mở ra, rồi một người bước xuống. Anh ta mặc bộ áo liền quần màu trắng phồng to tướng che kín từ đầu đến chân. Trông chẳng khác gì quả bóng.
Max điên sắp sửa gặp Pillsbury Dough rồi đây, Rachel thầm nghĩ, nhẹ nhõm nhận thấy có người sống ở mảnh đất này.
Anh ta ra hiệu cho viên phi công mở cửa sập.
Viên phi công làm theo.
Ngay khi cửa vừa mở, luồng gió buốt giá thốc vào trong ca bin. Rachel thấy lạnh thấu xương.
- Đóng cửa lại cho tôi nhờ.
- Cô Sexton phải không ạ? - Người lái xe gọi với lên, giọng Mỹ. - Thay mặt cho NASA, xin chào đón cô.
Rachel run lập cập.
- Xin đa tạ.
Cô tháo mặt nạ, mũ bay và dây an toàn ra.
- Hãy bước xuống bậc thang bên hông máy bay. Cô có gì cần hỏi không ạ?
- Có đấy. - Rachel gào lên trả lời. - Tôi đang ở chỗ quái quỉ nào đây?
Trong suốt hành trình, thay vì thấy quang cảnh của New Foundland, cô chỉ nhìn thấy duy nhất một thứ dưới cánh chiếc máy bay F14: nước.
Tại sao lại phải là nước nhỉ? Rachel nhăn nhó thầm hỏi. Hồi lên bảy, Rachel đã bị ngã nhào xuống hồ nước đóng băng trong khi chơi trượt băng. Bị làn nước giá buốt bao trùm, cô nghĩ mình chắc chắn sẽ phải chết. Nhưng rồi nhờ đôi cánh tay mạnh mẽ của mẹ cô, thân thể ướt mèm của Rachel đã được kéo lên bờ. Kể từ sự kiện hãi hùng đó, Rachel luôn phải đấu tranh với cảm giác sợ hãi vô cớ - sợ những vùng nước rộng, đặc biệt là nước lạnh. Hôm nay, khi trong tầm mắt không có gì ngoài cực bắc tít tận cuối chân trời, nỗi sự ấy đang bủa vây cô.
Đến khi viên phi công kiểm tra lại vị trí của chiếc máy bay bằng liên lạc với sân bay Thule thì Rachel mới biết mình đã đi xa đến mức nào. Qua cả vòng chí tuyến rồi cơ ư? Biết sự thật, cô càng cảm thấy bất an hơn. Họ đưa mình đi đâu thế nhỉ? NASA đã tìm thấy cái gì?
Một lúc sau, trên mặt nước màu xanh xám bên dưới đã thấy có muôn vàn chấm trắng ảm đạm.
Lần duy nhất trong đời Rachel trông thấy núi băng là sáu năm trước, khi mẹ cô ra sức thuyết phục cô cùng bà tham gia chuyến thám hiểm Alaska. Rachel đã lựa chọn không biết bao nhiêu khu nghỉ mát trên đất liền, nhưng mẹ cô vẫn nhất mực không đổi ý. Bà nói: "Rachel, con yêu của mẹ, hai phần ba hành tinh này là nước, cho nên sớm hay muộn gì con sẽ phải tập đối mặt với nó". Bà Sexton vốn là một thiếu phụ kiên định của vùng New Engiand, thuộc kiểu người luôn muốn con cái họ lớn lên phải kiên cường và mạnh mẽ.
Chuyến thám hiểm ấy là dịp cuối cùng hai mẹ con được ở bên nhau.
Catherine Wenworth Sexton. Rachel chợt cảm thấy mình đơn côi biết mấy. Bao ký ức chợt ào ạt ùa về, như những cơn gió quất bên ngoài ca bin máy bay, như bao lần trước, lại một lần nữa kỷ niệm đay ắp trong tâm trí Rachel. Lần cuối cùng hai mẹ con cô nói chuyện với nhau là trên điện thoại. Sáng sớm ngày lễ Tạ ơn.
- Con xin lỗi mẹ, - cô gọi về từ sân bay O Hare tuyết phủ - con biết gia đình mình bao giờ cũng sum họp vào ngày lễ Tạ ơn, nhưng hôm nay chắc sẽ là lần đầu tiên không được như vậy.
Giọng mẹ cô đầy đau khổ:
- Mẹ mong được gặp con biết chừng nào. Rachel của mẹ.
- Con cũng thế mẹ ạ. Mẹ hãy tưởng tượng con phải ăn đồ ăn liền ở sân bay trong khi mẹ và bố đang thưởng thức món gà tây.
Mẹ cô lặng đi một lúc trên điện thoại.
- Rachel, mẹ định đợi con về nhà mới nói, nhưng cha con nói rằng ông ấy bận quá nên năm nay không về nghỉ ở nhà được. Ông ấy sẽ ở lại khách sạn của mình ở D.C, trong suốt kỳ nghỉ.
- Sao cơ? - Sự ngạc nhiên của Rachel ngay lập tức chuyển thành phẫn nộ. - Nhưng hôm nay là ngày lễ Tạ ơn, Thượng nghị viện có họp đâu! Bố chỉ cách nhà có hai giờ lái xe thôi mà. Bố phải về với mẹ mới đúng chứ!
- Mẹ biết. Nhưng ông ấy nói là mệt lắm nên không thể lái xe được ông ấy đã quyết định sẽ dành kỳ nghỉ để giải quyết những công việc tồn đọng.
Công việc ư? Rachel thấy nghi ngờ. Rất có thể là ngài Thượng nghị sĩ đang hú hí với người đàn bà nào đó. Sự không chung thuỷ của ông ta, dù kín đáo, vẫn kéo dài từ nhiều năm nay. Bà Sexton không phải là người không biết gì, nhưng tất cả những vụ tình ái của ông ta đều được sắp xếp với những chứng cứ ngoại phạm và thái độ phẫn nộ sâu sắc khi có ai đả động đến chuyện ông ta là người chồng không chung thuỷ. Cuối cùng, bà Sexton chẳng còn bỉết làm gì khác ngoài việc nhắm mắt làm ngơ và gắng chôn chặt nỗi đau của mình. Dù Rachel vẫn khuyến khích mẹ cô tiến hành thủ tục li dị, nhưng Katherin Wenworth Sexton là người đã nói là làm. Bà nói với Rachel: "Chỉ cái chết mới chia lìa được mẹ và ông ấy. Nhờ ông ấy mẹ mới có được con - cô con gái vô cùng kiều diễm - mẹ chịu ơn ông ấy. Sẽ có ngày ông ấy phải sám hối trước Đấng tối cao về điều đó". Lúc ấy, tại sân bay, Rachel giận sôi lên.
- Nhưng thế thì mẹ sẽ phải cô đơn trong ngày lễ Tạ ơn!
Cô cảm thấy kinh tởm. Việc Thượng nghị sĩ bỏ bê gia đình trong ngày lễ Tạ ơn là một bước suy đồi so với sự tồi tệ trước đó của ông ta.
- Không sao. - Giọng mẹ cô buồn nhưng cương quyết. - Không thể để những đồ ăn này bị hỏng được. Mẹ sẽ lái xe đến nhà dì Ann. Năm nào dì ấy cũng mời nhà mình đến dự lễ Tạ ơn Mẹ gọi cho dì ấy ngay đây.
Rachel vẫn chẳng cảm thấy bớt áy náy được là bao.
- Thôi được. Con sẽ về nhà ngay lập tức đây. Con yêu mẹ lắm.
- Chúc con yêu bay an toàn.
Mười giờ rưỡi đêm hôm ấy, cuối cùng thì chiếc tắc xi cũng đưa Rachel ngoặt lên, con đường rải sỏi và tiến vào ngôi biệt thự sang trọng của nhà Sexton. Rachel biết ngay đã có chuyện chẳng lành.
Xe cảnh sát đỗ trên lối vào. Có cả xe hòm của báo chí. Cả ngôi nhà sáng trưng. Rachel lao vào nhà, lòng đau như xé.
Một nhân viên cảnh sát bang Virginia gặp cô ở ngưỡng cửa. Trông anh ta đầy vẻ hệ trọng. Nhưng chẳng cần anh ta phải nói gì hết. Rachel biết đã có một vụ tai nạn.
- Do mưa và băng tuyết nên tuyến đường 25 trở nên rất trơn. - Anh ta nói. - Xe của mẹ cô bị văng vào khe núi. Bà mất ngay tại chỗ do va đập mạnh.
Rachel thấy toàn thân tê dại. Cha cô đã về nhà ngay khi nhận được tin và giờ đang tổ chức cuộc họp báo nhỏ trong phòng khách.
Với vẻ mặt đau khổ, ông ta tuyên bố rằng phu nhân của mình đã gặp tai nạn trên đường về nhà sau khi cùng gia đình đi dự tiệc nhân ngày lễ.
Đứng ở một bên chái nhà, Rachel khóc ròng rã.
- Ước nguyện duy nhất của tôi là - nước mắt lưng tròng, cha cô tuyên bố với các nhà báo - là tôi có thể về nhà với bà ấy trong kỳ nghỉ này. Đáng ra tôi đã không bao giờ được để điều này xảy ra.
Đáng ra ông phải nghĩ được điều đó từ nhiều năm trước rồi kia. Rachel khóc nức lên, và mỗi lúc một thêm căm ghét cha mình. Từ đó trở đi, Rachel sống tách biệt hẳn. Nhưng ngài Thượng nghị sĩ dường như chẳng nhận ra điều đó. Ông mải bận rộn biến cái chết của vợ mình thành một cơ hội để trở thành ứng cử viên Tổng thống của đảng. Những lá phiếu giành được nhờ sự cảm thông hoá ra không hề ít.
Tai ác thay, ba năm sau sự kiện ấy, dù ở cách rất xa, ngài Thượng nghị sĩ vẫn khiến cho con gái mình cảm thấy côi cút. Do chiến dịch tranh cử Tổng thống của cha cô, Rachel buộc phải gác lại giấc mơ tìm người đàn ông phù hợp và gây dựng mái ấm gia đình. Cô thà sống tách biệt hẳn khỏi xã hội còn hơn trở thành đối tượng săn đón của vô số những kẻ khát quyền lực đang săn lùng cơ hội trở thành vị hôn thê của cô con gái âu sầu của ngài Tổng thống tiềm năng.
Bên ngoài cửa sổ chiếc phản lực F14, bóng đêm đang từ từ dâng lên. Giờ đang là cuối mùa đông ở vùng cực - mùa của đêm đen.
Rachel nhận thấy chiếc phản lực đang bay vào vùng bóng đêm vĩnh cửu.
Chỉ vài phút sau, Mặt trời đã biến mất hẳn phía sau đường chân trời. Họ tiếp tục bay về phương Bắc, và mảnh trăng lưỡi liềm vằng vặc hiện ra, lơ lửng trên bầu trời Bắc cực lạnh giá. Tít bên dưới, là những con sóng bạc đầu mờ ảo, những tảng băng trôi trông như những viên kim cương được đính trên tấm lưới mắt cáo màu sẫm.
Cuối cùng thì Rachel cũng lờ mờ nhìn thấy đất liền. Nhưng nó rất khác những gì cô tưởng tượng. Xa xa dưới cánh máy bay là một dải núi tuyết phủ.
Núi Rachel băn khoăn tự hỏi.
- Phía bắc đảo Greenland có núi hay sao?
- Dĩ nhiên rồi. - Viên phi công trả lời, anh ta cũng có vẻ ngạc nhiên chẳng kém gì cô.
Khi chiếc F14 chúi đầu xuống đất, Rachel rơi vào cảm giác không trọng lượng vô cùng khó chịu. Dù hai tai gần như ù đặc, cô vẫn nghe thấy tiếng thiết bị điện tử kêu bíp bíp trong khoang lái. Rõ ràng là viên phi công đã bắt được liên lạc với thiết bị dẫn đường và đang làm theo chỉ dẫn từ mặt đất.
Xuống đến dưới độ cao ba ngàn foot, Rachel chăm chú nhìn quang cảnh mặt đất dưới ánh trăng. Dưới chân rặng núi là một dải đất phẳng khá rộng. Dải đất này kéo dài khoảng mười dặm về phía biển. ở tận cùng của dải đất bằng ấy là mỏm băng dựng đứng nhô ra biển.
Lần đầu tiên Rachel nhìn thấy kiểu địa hình này. Thật đặc biệt.
Lúc đầu cô tưởng mình bị ảo giác do ánh trăng. Rachel nhìn những mỏm tuyết, không dám tin vào mắt mình. Càng xuống thấp, cảnh vật càng hiện ra rõ ràng hơn.
Lạy Chúa, đây là đâu?
Dải đất bằng bên dưới có những đường sọc, như thế người ta đã dùng sơn màu bạc để vẽ trên tuyết ba đường sọc thật lớn.
Những vệt sáng lấp lánh này chạy song song với mỏm đá dọc theo bờ biến. Xuống đến độ cao năm trăm foot thì ảo giác ấy mới biến mất. Trong lòng ba con mương sâu với bề ngang rộng khoảng ba mươi mét, nước đóng băng. Chúng nằm vắt ngang dải đất bằng.
Những dải màu trắng giữa những dòng kênh ấy trông chẳng khác gì những con đê bằng tuyết.
Bay đến dải đất bằng đó, máy bay bắt đầu hạ độ cao và lắc.
Rachel nghe thấy tiếng phanh rít nhưng chẳng nhìn thấy đường băng nào cả. Trong khi viên phi công đang tập trung điều khiển máy bay, Rachel nhòm ra ngoài và trông thấy hai dải sáng lấp lánh hai bên dòng kênh băng trong cùng. Cô kinh hãi khi hiểu ra ý định của viên phi công.
- Chúng ta hạ cánh xuống băng à? - Cô hỏi.
Viên phi công không trả lời. Anh ta còn mải vật lộn với những cơn gió giật. Rachel thấy bụng dạ bị lộn tung lên khi chiếc máy bay giảm tốc độ và hướng về phía con kênh băng. Hai dải đê tuyết hiện ra hai bên thân máy bay, Rachel nín thở. Cô hiểu rằng chỉ một nhầm lẫn nhỏ trong con kênh hẹp này cũng có thể gây ra sự cố chết người.
Chiếc máy bay lắc lư hạ cánh xuống giữa hai dải đê bằng tuyết, và đột ngột ngừng rung lắc. Được dải đê chắn gió, nó tiếp đất êm ái.
Chiếc phi cơ chạy chậm dần. Rachel thở phào. Máy bay chạy thêm khoảng một trăm mét nữa và dừng hẳn ngay trước vệt sơn đỏ chói trên mặt băng.
Chẳng nhìn thấy gì ở bên phải ngoài bức tường tuyết dưới ánh trăng - sườn của con đê tuyết. Bên trái cũng y như vậy. Chỉ có thể nhìn qua cửa chắn gió ở phía trước… và thấy băng hà trải dài vô tận. Cảm tưởng như họ vừa hạ cánh xuống hành tinh chết. Trừ vệt sơn đỏ trên tuyết, không có bất kỳ dấu hiệu nào của sự sống.
Rồi Rachel nghe thấy từ đằng xa, một chiếc xe đang tiến lại.
Tiếng động cơ inh ỏi. Tiếng ồn mỗi lúc một to dần cho đến khi chiếc xe xuất hiện. Đó là chiếc máy kéo lớn có nhiều bánh đang đi dọc theo con mương về phía họ. Cao và trần trụi, chiếc xe chẳng khác gì một côn trùng phàm ăn to lớn với những cái chân quay trong truyện khoa học viễn tưởng. Ca bin được bố trí cách khá xa khung gầm xe. Rất nhiều đèn pha dưới gầm xe rọi sáng mặt đất.
Chiếc xe lắc mạnh rồi dừng lại ngay cạnh máy bay. Cửa ca bin mở ra, rồi một người bước xuống. Anh ta mặc bộ áo liền quần màu trắng phồng to tướng che kín từ đầu đến chân. Trông chẳng khác gì quả bóng.
Max điên sắp sửa gặp Pillsbury Dough rồi đây, Rachel thầm nghĩ, nhẹ nhõm nhận thấy có người sống ở mảnh đất này.
Anh ta ra hiệu cho viên phi công mở cửa sập.
Viên phi công làm theo.
Ngay khi cửa vừa mở, luồng gió buốt giá thốc vào trong ca bin. Rachel thấy lạnh thấu xương.
- Đóng cửa lại cho tôi nhờ.
- Cô Sexton phải không ạ? - Người lái xe gọi với lên, giọng Mỹ. - Thay mặt cho NASA, xin chào đón cô.
Rachel run lập cập.
- Xin đa tạ.
Cô tháo mặt nạ, mũ bay và dây an toàn ra.
- Hãy bước xuống bậc thang bên hông máy bay. Cô có gì cần hỏi không ạ?
- Có đấy. - Rachel gào lên trả lời. - Tôi đang ở chỗ quái quỉ nào đây?