Chương : 1
Tháng 7 năm 1932, Đản Đản trải qua sinh nhật năm tuổi của mình.
Năm tuổi chính là độ tuổi mà trẻ con thích mạo hiểm nhất, Đản Đản cũng không ngoại lệ.
Mỗi một hộ gia đình trong làng đều có trẻ con, vì trẻ con quá nhiều nên người lớn không có cách nào trông nom hết. Vì thế, Đản Đản đợi đến lúc nửa đêm liền lén lút leo ra ngoài qua đường cửa sổ.
Trong bụi lau sậy bên ngoài cửa sổ đã có hai thiếu niên đang chờ cậu.
“A, anh Tuấn Tuấn, anh Mao, hai anh hứa cho xem rồi nha, làm em ngóng dài cả mắt đây này.”
“Suỵt.” Anh Tuấn Tuấn ra hiệu im lặng, kéo Đản Đản chạy ra hướng ngoài thôn.
“Nói nhỏ thôi.” Anh Mao lén lén lút lút hết nhìn Đông tới nhìn Tây.
Ba người lặng lẽ đi trong bụi lau sậy suốt một đoạn đường. Bọn họ vòng qua một cây đại thụ, đẩy ra tầng tầng cỏ dại, để lộ ra một cái động.
Anh Mao rón rén tuột xuống.
Đản Đản lập tức đuổi theo, anh Tuấn Tuấn thì đi sau lưng cậu.
Đường đi bên trong động quanh co khúc khuỷu, chờ khi chân chạm đất, anh Mao đánh hộp quẹt, lúc này Đản Đản mới thấy rõ xung quanh nơi chật hẹp này là những bức tường bằng phẳng.
Giống như một nhà đá.
“Đồ các anh nói đâu?” Đản Đản không vui, mấy ngày trước cậu nghe hai người này nói bọn họ phát hiện một ngôi mộ cổ. Rất có thể bên trong có rất nhiều vàng bạc châu báu, bán đi rồi không chừng sẽ giàu to.
Mà sau khi giàu rồi, bọn họ sẽ không còn trải qua cuộc sống cực khổ này nữa.
Đản Đản cũng muốn giàu to, vì thế cậu quấn lấy bọn họ không tha.
Các thiếu niên mười hai tuổi ngây thơ chất phác, dựa trên nguyên tắc có phúc cùng hưởng có họa cùng chia, bọn họ chấp nhận mang Đản Đản cùng đi đào vàng bạc châu báu.
Nhưng không có vàng bạc châu báu, bọn họ chỉ phát hiện hộp chiếc hộp nhỏ.
Anh Mao cười đầy thần bí, hắn mò tìm một cái móc kéo trên tường đá, vốn Đản Đản tưởng hắn sẽ kéo xuống nhưng anh Mao lại làm một hành động ngoài ý muốn của cậu.
Hắn không kéo, mà trèo lên tường.
Một tiếng xoạt rất nhỏ vang lên, anh Mao trèo lên tường, nghiêng người lẻn đi vào, không gian bên kia bức tường rất lớn, một bức tranh Phượng được khắc trên tường, còn các trụ đá thì khắc hình Rồng uốn lượng, chính giữa căn phòng là một cái bình đài, giữa bình đài có một chiếc hộp nhỏ được đặt ở đó.
Anh Mao cầm lấy cái hộp, lắc lắc trước mặt Đản Đản: “Nhóc đoán xem bên trong có cái gì nào?”
Đản Đản cầm cái hộp.
Hộp làm bằng đồng thiếc, bên trên dán đầy giấy vàng, Đản Đản lắc lắc hộp, cậu cảm giác bên trong trống không.
“Mấy anh lấy đồ bên trong ra rồi đúng không?” Đản Đản hơi thất vọng.
“Hộp còn chưa mở mà, thằng nhóc này.” Anh Tuấn Tuấn chộp lấy cái hộp, dương dương đắc ý nói, “Bọn anh chờ mày tới để cùng mở hộp đó!”
Anh Mao giơ hộp quẹt lên: “Mở nhanh lên, lửa sắp cháy hết rồi.”
Anh Tuấn Tuấn ừ một tiếng, vui vẻ xé toạc mấy tờ giấy dán trên hộp.
Một tràn tiếng tim đập thình thịch dồn dập đột nhiên xuất hiện khiến Đản Đản vô thức lùi lại một bước.
Tiếng giấy bị giật xé xoạt xoạt rơi xuống đất, tựa như tiếng da thịt dính trên xương bị xé xuống khỏi cơ thể khiến Đản Đản sợ đến mức cả người run rẩy. Nó chậm rãi di chuyển về phía cạnh cửa rồi la lớn với hai thiếu niên: “Anh Tuấn Tuấn, anh Mao, đừng mở nữa! Mau qua đây đi!”
Đản Đản có cảm giác có thứ gì đó rất nguy hiểm bên trong chiếc hộp khiến hai thiếu niên đứng trên bình đài bị nó hấp dẫn. Bọn họ không nghe thấy tiếng gào thét của Đản Đản, trong mắt bọn họ tỏa ánh sáng, động tác xé mở cực kỳ nhanh. Chỉ trong nháy mắt, chiếc hộp đã bị mở ra.
Một làn khói kỳ dị bốc lên bao trùm lấy hai thiếu niên.
Lúc này, Đản Đản đã sợ đến mức bỏ chạy mất dép…
Tháng 7 năm 1932, anh Tuấn Tuấn và anh Mao mất tích, Đản Đản im lặng.
Tháng 8 cùng năm, có bảy người mất tích trong làng. Đản Đản vẫn im lặng.
Tháng 9, số người mất tích trong làng tăng lên mười người, Đản Đản tiếp tục im lặng.
Tháng 10, số người mất tích trong làng đã lên đến ba mươi người.
Những người đó đột nhiên biến mất không một tiếng động, vì quá quỷ dị nên trưởng làng nghi ngờ trong làng có quỷ quậy phá, thế nên ông ta buộc phải mời đại sư đến làm phép.
Vừa đúng lúc trong thành phố cho đăng ký hộ khẩu, chị của Đản Đản muốn kết hôn, vì có rất nhiều cơ hội nên cả nhà bọn họ quyết định dọn lên thành phố.
Nhưng tối hôm trước khi đi lại trở thành một cơn ác mộng khắc sâu vào lòng Đản Đản.
Cậu quyết định cho đến lúc mình xuống mồ cũng phải mang bí mật này theo cùng.
Mấy chục năm trôi qua, cuối cùng không còn tin người mất tích truyền ra từ ngôi làng kia nữa,
Trong một góc xa xôi nào đó ở chốn thành thị, Đản Đản nghĩ mọi chuyện đã kết thúc.
Nhưng cậu thật sự quá ngây thơ rồi.
Năm tuổi chính là độ tuổi mà trẻ con thích mạo hiểm nhất, Đản Đản cũng không ngoại lệ.
Mỗi một hộ gia đình trong làng đều có trẻ con, vì trẻ con quá nhiều nên người lớn không có cách nào trông nom hết. Vì thế, Đản Đản đợi đến lúc nửa đêm liền lén lút leo ra ngoài qua đường cửa sổ.
Trong bụi lau sậy bên ngoài cửa sổ đã có hai thiếu niên đang chờ cậu.
“A, anh Tuấn Tuấn, anh Mao, hai anh hứa cho xem rồi nha, làm em ngóng dài cả mắt đây này.”
“Suỵt.” Anh Tuấn Tuấn ra hiệu im lặng, kéo Đản Đản chạy ra hướng ngoài thôn.
“Nói nhỏ thôi.” Anh Mao lén lén lút lút hết nhìn Đông tới nhìn Tây.
Ba người lặng lẽ đi trong bụi lau sậy suốt một đoạn đường. Bọn họ vòng qua một cây đại thụ, đẩy ra tầng tầng cỏ dại, để lộ ra một cái động.
Anh Mao rón rén tuột xuống.
Đản Đản lập tức đuổi theo, anh Tuấn Tuấn thì đi sau lưng cậu.
Đường đi bên trong động quanh co khúc khuỷu, chờ khi chân chạm đất, anh Mao đánh hộp quẹt, lúc này Đản Đản mới thấy rõ xung quanh nơi chật hẹp này là những bức tường bằng phẳng.
Giống như một nhà đá.
“Đồ các anh nói đâu?” Đản Đản không vui, mấy ngày trước cậu nghe hai người này nói bọn họ phát hiện một ngôi mộ cổ. Rất có thể bên trong có rất nhiều vàng bạc châu báu, bán đi rồi không chừng sẽ giàu to.
Mà sau khi giàu rồi, bọn họ sẽ không còn trải qua cuộc sống cực khổ này nữa.
Đản Đản cũng muốn giàu to, vì thế cậu quấn lấy bọn họ không tha.
Các thiếu niên mười hai tuổi ngây thơ chất phác, dựa trên nguyên tắc có phúc cùng hưởng có họa cùng chia, bọn họ chấp nhận mang Đản Đản cùng đi đào vàng bạc châu báu.
Nhưng không có vàng bạc châu báu, bọn họ chỉ phát hiện hộp chiếc hộp nhỏ.
Anh Mao cười đầy thần bí, hắn mò tìm một cái móc kéo trên tường đá, vốn Đản Đản tưởng hắn sẽ kéo xuống nhưng anh Mao lại làm một hành động ngoài ý muốn của cậu.
Hắn không kéo, mà trèo lên tường.
Một tiếng xoạt rất nhỏ vang lên, anh Mao trèo lên tường, nghiêng người lẻn đi vào, không gian bên kia bức tường rất lớn, một bức tranh Phượng được khắc trên tường, còn các trụ đá thì khắc hình Rồng uốn lượng, chính giữa căn phòng là một cái bình đài, giữa bình đài có một chiếc hộp nhỏ được đặt ở đó.
Anh Mao cầm lấy cái hộp, lắc lắc trước mặt Đản Đản: “Nhóc đoán xem bên trong có cái gì nào?”
Đản Đản cầm cái hộp.
Hộp làm bằng đồng thiếc, bên trên dán đầy giấy vàng, Đản Đản lắc lắc hộp, cậu cảm giác bên trong trống không.
“Mấy anh lấy đồ bên trong ra rồi đúng không?” Đản Đản hơi thất vọng.
“Hộp còn chưa mở mà, thằng nhóc này.” Anh Tuấn Tuấn chộp lấy cái hộp, dương dương đắc ý nói, “Bọn anh chờ mày tới để cùng mở hộp đó!”
Anh Mao giơ hộp quẹt lên: “Mở nhanh lên, lửa sắp cháy hết rồi.”
Anh Tuấn Tuấn ừ một tiếng, vui vẻ xé toạc mấy tờ giấy dán trên hộp.
Một tràn tiếng tim đập thình thịch dồn dập đột nhiên xuất hiện khiến Đản Đản vô thức lùi lại một bước.
Tiếng giấy bị giật xé xoạt xoạt rơi xuống đất, tựa như tiếng da thịt dính trên xương bị xé xuống khỏi cơ thể khiến Đản Đản sợ đến mức cả người run rẩy. Nó chậm rãi di chuyển về phía cạnh cửa rồi la lớn với hai thiếu niên: “Anh Tuấn Tuấn, anh Mao, đừng mở nữa! Mau qua đây đi!”
Đản Đản có cảm giác có thứ gì đó rất nguy hiểm bên trong chiếc hộp khiến hai thiếu niên đứng trên bình đài bị nó hấp dẫn. Bọn họ không nghe thấy tiếng gào thét của Đản Đản, trong mắt bọn họ tỏa ánh sáng, động tác xé mở cực kỳ nhanh. Chỉ trong nháy mắt, chiếc hộp đã bị mở ra.
Một làn khói kỳ dị bốc lên bao trùm lấy hai thiếu niên.
Lúc này, Đản Đản đã sợ đến mức bỏ chạy mất dép…
Tháng 7 năm 1932, anh Tuấn Tuấn và anh Mao mất tích, Đản Đản im lặng.
Tháng 8 cùng năm, có bảy người mất tích trong làng. Đản Đản vẫn im lặng.
Tháng 9, số người mất tích trong làng tăng lên mười người, Đản Đản tiếp tục im lặng.
Tháng 10, số người mất tích trong làng đã lên đến ba mươi người.
Những người đó đột nhiên biến mất không một tiếng động, vì quá quỷ dị nên trưởng làng nghi ngờ trong làng có quỷ quậy phá, thế nên ông ta buộc phải mời đại sư đến làm phép.
Vừa đúng lúc trong thành phố cho đăng ký hộ khẩu, chị của Đản Đản muốn kết hôn, vì có rất nhiều cơ hội nên cả nhà bọn họ quyết định dọn lên thành phố.
Nhưng tối hôm trước khi đi lại trở thành một cơn ác mộng khắc sâu vào lòng Đản Đản.
Cậu quyết định cho đến lúc mình xuống mồ cũng phải mang bí mật này theo cùng.
Mấy chục năm trôi qua, cuối cùng không còn tin người mất tích truyền ra từ ngôi làng kia nữa,
Trong một góc xa xôi nào đó ở chốn thành thị, Đản Đản nghĩ mọi chuyện đã kết thúc.
Nhưng cậu thật sự quá ngây thơ rồi.