Chương : 31
Cố Tiểu Ngũ dường như có phần bất ngờ, chàng nhìn tôi một cái rồi mới bảo: “Đương nhiên muốn chứ.”
“Nhưng mà tính ta không tốt đẹp gì, vả lại chàng là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê. Chàng nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà chàng, ta cũng không rõ. Nếu bảo chàng ở lại Tây Lương, nơi đây cách Trung Nguyên đến ngàn dặm, thể nào rồi chàng cũng nhớ nhà. Còn như chàng không ở Tây Lương nữa, mà về Trung Nguyên, Trung Nguyên cách Tây Lương đến ngàn dặm, ta sẽ nhớ nhà lắm. Đành rằng chàng giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta, chàng cũng nói đấy thôi, chẳng qua trên đường đi buôn thì tạt qua…Tuổi ta còn nhỏ thật, nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép uổng…”
Tôi nói một hơi không ngưng nghỉ, đủ các thể loại phiền phức của cả 2 kể từ lần gặp gỡ đầu tiên cho đến nay, tôi đều nói cả thảy rồi, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ vẫn không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt sườn dê xuống, làm ngụm nước, chàng mới hỏi: “Nói nhiều thế này, thực chất toàn những chuyện chẳng liên quan gì. Ta chỉ hỏi nàng, rốt cuộc nàng có bằng lòng lấy ta không?”
Nước trong miệng tí nữa thì phun ra bằng sạch, tôi trừng trộ chàng ta hồi lâu, bỗng mặt nóng bừng: “Bằng lòng hay không…ơ…”
“Nói đi!” Chàng giục, “Tóm lại nàng bằng lòng không?”
Bụng dạ tôi rối bời, mấy ngày dạo gần đây, mọi thứ như thể hư ảo, như thể mộng mị. Nhiều việc xảy ra mà cứ lao nhanh vun vút, trước kia thật sự nào có nghĩ mình sẽ sớm lấy chồng thế này đâu, ấy thế mà lại là Cố Tiểu Ngũ, thoạt đầu tôi thấy gã này đáng ghét lắm, còn giờ lại không tài nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào nữa, nhìn đom đóm đưa thoi giữa khoảng không, tôi chợt hạ quyết tâm, bảo: “Vậy chàng gom đủ 100 con đom đóm cho ta, ta mới bằng lòng lấy chàng.”
Vừa dứt lời, chàng ta đã đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn chàng chẳng khác nào một đứa nhóc con nghịch ngợm, giương tay lộn mèo một phát. Tôi thấy cả người chàng đã vọt lên, cứ như một ngôi sao—không, không, giống thế nào được với sao băng, nom chàng ta chực lao thẳng xuống bãi sông luôn ấy. Bất thình lình, chàng khua tay, tôi thấy bàn tay chàng đã nắm chặt một túm phải đến vài con đom đóm, đám ranh mãnh ấy tỏa đốm sáng li ti lập lòe giữa những kẽ tay, tôi đùm vạt áo dài, cuống quýt bảo: “Mau lên! Mau lên!” Chàng thả túm đom đóm vào trong cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo, tôi trông chàng lại vọt lên phát nữa, võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, giống như một bài thơ, chấm phá truyền thần thoải mái không hề gò bó. Nhất cử nhất động của chàng như thể đang nhảy múa, thật trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái hào hùng đến thế. Chàng ta tung mình giữa chừng không, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đóm đóm chớp nháy không ngừng kia. Ống tay áo khẽ gợn làn gió, tôi chỉ hướng cho chàng: “Bên trái! Bên phải có nhiều lắm kìa!” “Ối!” “Nó chạy mất tiêu rồi! Bên kia!! Trời ơi đằng đó một đống!”
…
Tiếng cười của đôi tôi dạt đến tít bở sông xa, đống đom đóm gộp trong vạt áo mỗi lúc một nhiều, nhiều lắm, chúng chụm nhau lại cùng tỏa thứ ánh sáng lóng lánh, như thể trong lòng tôi đang đùm một vầng trăng rằm. Bầy đom đóm ven sông dạt đi mất hút, chúng bị Cố Tiểu Ngũ tóm sạch đặt cả trong lòng tôi.
“Đủ 100 con chưa?” Chàng tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài vạch một mép vạt áo, “Có cần đếm không nhỉ?”
Chúng tôi vừa đếm được chừng mười mấy con, trên người Cố Tiểu Ngũ thoảng làn hương mát lành dịu nhẹ, thứ mùi thơm ấy không thấy có ở người Đột Quyết lẫn người Tây Lương, nó cứ chờn vờn khiến tôi mất cả tự nhiên, khuôn mặt hình như còn nóng bừng, chàng đứng bên tôi gần quá. Bỗng đâu có trận gió bùng lên, có sợi tóc của chàng phẩy hờ trên mặt tôi, nhẹ, mềm, mà rộn rạo, tay nâng vạt áo cầm lòng không đặng thế rồi chỉ vừa bung lỏng mà bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, đốm sáng vương vãi hóa thành vô số những vệt sao sao băng li ti, nhoáng cái những vệt sao băng đã vây quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, ánh sáng rạng rỡ tưới lên khuôn mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy đôi mắt đen lay láy của chàng, mà đôi mắt ấy cũng đang nhìn tôi. Tôi nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều A Độ, bọn họ cũng trông A Độ bằng ánh nhìn nóng rẫy như lửa kiểu này đây, nom khiến người ta quả thật phải mủi lòng. Thế mà ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ ôn tồn hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, bỗng dưng một nơi nào đó trong lòng đã khẽ xốn xang, cảm giác nửa dễ chịu nửa không. Ánh mắt đôi bên giao nhau, bỗng nhiên chàng trở nên thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn đom đóm trên trời, bảo: “Bay cả rồi!”
Tôi bất giác nói: “Giống sao băng nhỉ!”
Chàng cũng cười ha hả: “Sao băng à!”
Đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Tình này cảnh này tựa là mơ. Tôi bảo mình vĩnh viễn cũng chẳng thể quên được buổi tối hôm ấy bên bờ sông, chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.
Đại Thiền Vu sai sứ giả về bẩm báo với Phụ vương tôi rằng, ông đã chọn được cho tôi một gã con rể, chính là Cố Tiểu Ngũ đây. Phụ vương đương tiến thoái lưỡng nam giữa đằng Nguyệt Thị và Trung Nguyên, người nghe vậy tức thì viết một bức thư hồi âm, kính mong ông ngoại quyết định hộ tôi, rồi chủ trì việc cưới gả. Đoạn thư trả lời của cha đến nơi, thì hôn lễ đã bắt đầu được phân nửa.
Tục cưới hỏi của Đột Quyết long trọng song cũng đơn giản, doanh trại quây quần giết mổ biết mấy là thịt cừu, gió đưa rượu nồng thoảng hương nơi nơi. Độ mấy ngày này, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với đằng quý tộc Đột Quyết, người Đột Quyết tôn sùng nhất chính là những bậc anh hùng, trước kia Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau này lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng nghiễm nhiên là vị anh hùng tuổi trẻ đầy triển vọng. Thầy tế xướng điệu ca tụng đầy hân hoan, chúng tôi đạp lên nỉ đỏ, từ từ tiến lên đài cao thờ thánh thần phía thầy tế. Chính lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập vọng lại, lính trinh sát lăn long lóc chạy lại đằng Đại Thiền Vu đang ngồi.
Lướt qua đám đông huyên náo, tôi thấy đôi mày Đại Thiền Vu châu đầu lại với nhau, bất chấp vị thầy tế đang căng giọng ca tụng, tôi chạy đến chỗ Đại Thiền Vu: “Ông ơi!”
Đại Thiền Vu xoa đầu tôi, đoạn mỉm cười bảo: “Không sao cả, vua Nguyệt Thị sai đám người đến mắng vốn thôi, tiện đây ông cũng sai lính đi tống cổ chúng.”
Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ tiến đến đứng sau lưng tôi, chàng khom mình chấm vai thi lễ theo kiểu Đột Quyết: “Bẩm Đại Thiền Vu, xin ngài cho phép cháu được ra đó.”
“Cháu?” Đại Thiền Vu ngước nhìn chàng, “Vua Nguyệt Thị có 5 vạn quân,” Vả lại vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường, tài bắn tên tinh thông của Cố Tiểu Ngũ là lẽ đã đành, song đối mặt với hàng ngàn hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông mấy cũng chẳng ích gì.
“Vậy Đại Thiền Vu nên dụng kế ‘lấy nhàn rỗi đối phó mỏi mệt’, bằng cách sai 3 vạn kỵ binh ra nghênh địch.” Cố Tiểu Ngũ nói, “Nếu như Đại Thiền Vu không yên tâm, xin ngài cử 1 viên tướng quân, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể ngấm ngấm bắn lén từ đằng sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị hỗn loạn, cũng xem như đã góp được chút công mọn.”
Đại Thiền Vu vẫn đương do dự, Hách Thất lại bẩm: “Binh pháp của Trung Nguyên rất chuẩn xác, trên đường đi, chính bọn họ dẫn người đánh bại quân Nguyệt Thị.”
Cuối cùng, Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn bảo Cố Tiểu Ngũ: ‘Đi đi rồi đem thủ cấp tướng lĩnh Nguyệt Thị về làm tế phẩm hôn lễ của các cháu dâng lên Thánh thần.”
Cố Tiểu Ngũ chiếu theo lễ tiết của Trung Nguyên, quỳ lạy đoạn thưa: “Mong trời đất phù hộ Đại Thiền Vu!” Lúc chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi bảo: “Ta đi rồi trở về.”
Trong lòng tôi bộn bề lo lắng, đánh mắt nhìn chàng quay người trở gót, tôi vội vàng đuổi theo mấy bước, toan lấy dây lưng của mình cài lên eo chàng.
Theo nghi thức hôn lễ, tân lang tân nương trao nhau dây đeo lưng để kết thúc buổi lễ. Hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng xuống trao cho tôi, thế mà đám nô tài đã dẫn ngựa của chàng lại. Tôi không kịp nói với chàng dăm câu, chàng đạp lên yên ngựa, đoạn bảo tôi: “Ta đi rồi sẽ về.”
Tôi kéo tay áo chàng, lòng bịn rịn không nỡ buông lơi. Tôi chợt nhớ rất nhiều chuyện, nhớ 3 ngày 3 đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát, lúc ấy chỉ bởi đợi người con trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng, còn thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông, từ dạo ấy, tôi đã hạ quyết tâm mình và chàng mãi bên nhau trọn đời không rời xa… nhưng giờ đây chàng sắp ra trận, tôi cầm lòng không đặng nỗi niềm vấn vương.
Hình như chàng thấy ánh nhìn nơi tôi, môi nở nụ cười, cúi người vuốt ve bầu má tôi. Những ngón tay âm ấm, không phải tay cha, cũng chẳng giống ông ngoại, hóa ra lại có nét như bàn tay mẹ. Tôi chợt nghĩ tài bắn cung của chàng tinh thông là thế, sao trên tay lại chẳng hằn lấy 1 vết chai?
Lúc tôi đương ngờ ngợ, ngẫm lại vài chuyện vụn vặt. Chàng đã rụt tay về, cả đội 3 vạn quân chuẩn bị xong xuôi, vị tướng quân Đại Thiền Vu phái đi dẫn binh là anh cả đằng họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền Vu. Y Mạc Diên cười bảo tôi: “Muội yên tâm đi, huynh sẽ chăm sóc đệ ấy tử tế.” Người Đột Quyết bấy lâu nay quen chinh chiến, chuyện xông pha chiến trường với họ đơn thuần chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý người anh họ Y Mạc Diên này lắm, cũng bởi lúc nhỏ anh họ thường dẫn tôi đi săn, anh họ hết mực thương yêu, xem tôi như em gái ruột thịt. Tôi lớn tiếng bảo: “Ai cần huynh chăm sóc chàng ấy chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu đấy!” Mọi người đều rộ cười, họ tíu tít bảo: “Tiểu Công Chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tay Nguyệt Thị về.”
Cố Tiểu Ngũ theo sau đuôi cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của tộc Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt, thấy tôi tìm chàng trong đám đông, chàng cười đoạn giơ tay vẫy. Tôi trông eo chàng thắt chiếc dây lưng, đai lưng của tôi quấn đè lên đai lưng chàng, mới rồi tôi vội vội vàng vàng thắt cho chàng cái nút, tôi không đè được lo nghĩ chốc lát nữa liệu chiếc dây có tuột mất chăng, dây lưng mà bung thì xui xẻo lắm… Thế mà không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, thiên binh vạn mã đã tung vó lao băng băng về đằng chân trời, thoạt đầu còn thấy bóng đổ ngút ngát trải kín tầm mắt, sau cả đạo quân rẽ qua một con dốc, thế là biến mất luôn.
A Độ nom tôi tiu nghỉu đứng mãi chỗ ấy, đành dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết cô bé đang an ủi mình, rằng chỉ chốc nữa thôi là chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến 5 vạn quân, song đống lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã rã rời mệt nhọc, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, 3 vạn là đủ để đón đầu. Huống hồ lều chúa còn đây, 10 vạn quân bất cứ lúc nào cũng có thể tức thì tiếp viện.
Dê nướng xèo xèo trên lửa, chúng nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, nơi nơi rợp tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, bẵng đi một lúc, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang trên đường trở lại. Lòng tôi cứ canh cánh mãi lúc biệt ly, mặt mày không đừng được cái nóng rẫy. Y Mạc Diên về mà thấy, không hiểu sẽ trêu tôi thế nào nữa! Hẳn huynh ấy sẽ bảo tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ, đợi đến lúc huynh ấy trở về, thế nào cũng đầu têu cho mọi người chế nhạo tôi. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Mạc Y Diên như người đứng đầu, hội thi hát tối nay, lũ ấy thế nào chẳng ngâm nga trêu đùa. Bụng dạ tôi nao nao buồn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi tất phải bảo chàng ngay, kẻo khi đó lại tẽn tò.
Thế mà tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
.
Bẵng đi nhiều năm sau, tôi xem sách sử Trung Nguyên ghi chép lại chuyện ngày nọ. Sơ sài có dăm ba câu vô vị: “Tháng bảy, Thái Tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiết Nhĩ Cách Đạt Thiền Vu của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng lúc quân binh loạn lạc. Toàn tộc Đột Quyết bị giết thảy hơn hai mươi vạn người, toàn tộc bị diệt vong.”
Ngày đó, tôi cũng quên gần hết, chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, trước bụng trước ngực vết đao kiếm chằng chịt, máu tươi xối xả không ngừng, lúc đó xem ra khó qua khỏi. Huynh ấy dốc sức đưa tôi và A Độ lên 1 con ngựa, trăn trối câu cuối cùng: “A Độ, nhớ chăm sóc Công Chúa!”
Tôi trông tên kéo đến đen kìn kịt như làn mưa châu chấu, lại chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh trên cao có buông tay, hẳn khi số sao trong lòng bàn tay ập xuống hết ráo, chúng cũng thế này chăng… A Độ gồng sức quất ngựa đưa tôi cứ chạy, chạy mãi. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân Trung Nguyên và Nguyệt Thị như thể vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song cũng không thể địch lại sức tiến công của chúng… Xiết bao người đổ xuống sau lưng chúng tôi, xiết bao máu bắn tóe lên thân thể chúng tôi, ví như không có Hách Thất, chúng tôi hoàn toàn không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng ở lại, tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn chặn 6 ngày 6 đêm mới bị toán lính bắt kịp.
Đùi tôi bị thương, mà người A Độ cũng nhiều vết sứt sát, thế nhưng nàng ấy vẫn tuốt đao, che cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, nung nấu thân tôi đến độ khô rát, đầu không ngừng bảo: chính lũ chúng nó, chính lũ chúng nó đã giết ông ngoại; bọn chúng, chính bọn chúng giết Cố Tiểu Ngũ; lũ này, lũ này dồn nhân dân Đột Quyết vào đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn sót lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn đến giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể khiến ông ngoại bẽ mặt, không thể để nhân dân Đột Quyết mất thể diện.
Lúc đó có gã Trung Nguyên rong ngựa đến, A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ khàng nhô tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã “phịch” một tiếng đáp trên mặt đất. Tôi lặng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được đao từ A Độ, mà còn khiến nàng ấy chết trân một chỗ?
A Độ trừng mắt nhìn gã, hiếm khi mới thấy A Độ nổi cơn giận, tôi biết nàng ấy đang tức thật lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi đã cáu đến độ bất kể có là ai, mặc xác là ai, tôi cũng phải giết bằng được gã!
Kẻ nọ cũng chỉ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, thế rồi mắt tối sầm, lúc ấy chẳng còn hay biết gì.
Khi choàng tỉnh, đã thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang yên ngựa như một bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, ngặt không sao nhúc nhích nổi. Bốn phương tám hướng trông toàn vó ngựa, vô vàn chân ngựa nhấp nhô như cơ man lau cỏ dậy sóng trước gió, tôi chếnh choáng một chặp, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng rõ bao lâu sau mới thấy ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, khốn nỗi đùi bị điểm huyệt bấy lâu, đứng chẳng còn vững, lúc ấy lăn nhào ra đất.
Nền phủ lớp nỉ dày, hẳn nơi đây là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, là của gã quan đô hộ nào đó chăng? Tôi ngước trông lên, ấy thế mà đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ, xiết bao dũng sĩ Đột Quyết đã tử trận, nhất là 3 vạn quân Đột Quyết tiên phong đi nghênh địch kia, nào có ai sống sót trở về, thế mà Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sờ sờ đấy ư.
Chàng vẫn tồn tại trên đời này, không những vậy, chàng còn khoác trên mình áo quần Trung Nguyên, chẳng đội giáp mà vẫn toát lên vẻ nho nhã của người thư sinh Trung Nguyên, nhưng tôi biết, lều này tuyệt nhiên không phải chỗ cho thư sinh ở. Quanh chàng vây đầy vệ binh, gã tướng lĩnh bắt tôi về – vừa tiến vào đã quỳ lạy Cố Tiểu Ngũ, mũ giáp trên người chà sát những tiếng lanh lảnh, gã dập đầu theo lối lễ tiết tối cao của Trung Nguyên, nghe nói chỉ khi người Trung Nguyên bái kiến bậc quý tôn đứng dầu mới làm lễ này. Thoắt cái tôi chợt hiểu, chính Cố Tiểu Ngũ, thì ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng, chính chàng dẫn địch tập kích. Chẳng hiểu thu góp sức lực đâu ra, mà tôi gồng được mình phỉ nhổ về phía đó: “Đồ gian tế!”
Lũ vệ binh xung quanh đấy lớn tiếng quát tháo, có kẻ đá vào đùi tôi, đùi tôi nhũn oặt lăn kềnh xuống đất. Tôi thấy gã quan đô hộ đang khom mình vái Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng nói tiếng Trung Nguyên, tôi nghe không hiểu lấy một câu. Song Cố Tiểu Ngũ vẫn chẳng hề liếc phía tôi, gã quan đô hộ nói rất nhiều lời, tôi nom sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm, sau cùng lũ người đó lui khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ cầm dao, tiến về phía tôi.
“Nhưng mà tính ta không tốt đẹp gì, vả lại chàng là người Trung Nguyên, ta là người Tây Lương, ta thích ăn cơm kê, thích ăn thịt dê. Chàng nói tiếng Trung Nguyên ta nghe không hiểu, chuyện Trung Nguyên nhà chàng, ta cũng không rõ. Nếu bảo chàng ở lại Tây Lương, nơi đây cách Trung Nguyên đến ngàn dặm, thể nào rồi chàng cũng nhớ nhà. Còn như chàng không ở Tây Lương nữa, mà về Trung Nguyên, Trung Nguyên cách Tây Lương đến ngàn dặm, ta sẽ nhớ nhà lắm. Đành rằng chàng giết được vua sói mắt trắng, song chưa chắc đã là vì ta, chàng cũng nói đấy thôi, chẳng qua trên đường đi buôn thì tạt qua…Tuổi ta còn nhỏ thật, nhưng cũng hiểu những chuyện này đâu thể ép uổng…”
Tôi nói một hơi không ngưng nghỉ, đủ các thể loại phiền phức của cả 2 kể từ lần gặp gỡ đầu tiên cho đến nay, tôi đều nói cả thảy rồi, nói đến rạc cả cổ họng. Cố Tiểu Ngũ vẫn không hề ngắt lời tôi, mãi khi thấy tôi đặt sườn dê xuống, làm ngụm nước, chàng mới hỏi: “Nói nhiều thế này, thực chất toàn những chuyện chẳng liên quan gì. Ta chỉ hỏi nàng, rốt cuộc nàng có bằng lòng lấy ta không?”
Nước trong miệng tí nữa thì phun ra bằng sạch, tôi trừng trộ chàng ta hồi lâu, bỗng mặt nóng bừng: “Bằng lòng hay không…ơ…”
“Nói đi!” Chàng giục, “Tóm lại nàng bằng lòng không?”
Bụng dạ tôi rối bời, mấy ngày dạo gần đây, mọi thứ như thể hư ảo, như thể mộng mị. Nhiều việc xảy ra mà cứ lao nhanh vun vút, trước kia thật sự nào có nghĩ mình sẽ sớm lấy chồng thế này đâu, ấy thế mà lại là Cố Tiểu Ngũ, thoạt đầu tôi thấy gã này đáng ghét lắm, còn giờ lại không tài nào ghét được. Tôi chẳng biết nên trả lời thế nào nữa, nhìn đom đóm đưa thoi giữa khoảng không, tôi chợt hạ quyết tâm, bảo: “Vậy chàng gom đủ 100 con đom đóm cho ta, ta mới bằng lòng lấy chàng.”
Vừa dứt lời, chàng ta đã đứng phắt dậy. Tôi ngơ ngác nhìn chàng chẳng khác nào một đứa nhóc con nghịch ngợm, giương tay lộn mèo một phát. Tôi thấy cả người chàng đã vọt lên, cứ như một ngôi sao—không, không, giống thế nào được với sao băng, nom chàng ta chực lao thẳng xuống bãi sông luôn ấy. Bất thình lình, chàng khua tay, tôi thấy bàn tay chàng đã nắm chặt một túm phải đến vài con đom đóm, đám ranh mãnh ấy tỏa đốm sáng li ti lập lòe giữa những kẽ tay, tôi đùm vạt áo dài, cuống quýt bảo: “Mau lên! Mau lên!” Chàng thả túm đom đóm vào trong cái bọc mà tôi đùm bằng vạt áo, tôi trông chàng lại vọt lên phát nữa, võ công của người Trung Nguyên giống như một bức tranh, giống như một bài thơ, chấm phá truyền thần thoải mái không hề gò bó. Nhất cử nhất động của chàng như thể đang nhảy múa, thật trên đời này chẳng có điệu múa nào khí khái hào hùng đến thế. Chàng ta tung mình giữa chừng không, xoay những góc tuyệt diệu, đuổi theo lũ đóm đóm chớp nháy không ngừng kia. Ống tay áo khẽ gợn làn gió, tôi chỉ hướng cho chàng: “Bên trái! Bên phải có nhiều lắm kìa!” “Ối!” “Nó chạy mất tiêu rồi! Bên kia!! Trời ơi đằng đó một đống!”
…
Tiếng cười của đôi tôi dạt đến tít bở sông xa, đống đom đóm gộp trong vạt áo mỗi lúc một nhiều, nhiều lắm, chúng chụm nhau lại cùng tỏa thứ ánh sáng lóng lánh, như thể trong lòng tôi đang đùm một vầng trăng rằm. Bầy đom đóm ven sông dạt đi mất hút, chúng bị Cố Tiểu Ngũ tóm sạch đặt cả trong lòng tôi.
“Đủ 100 con chưa?” Chàng tiến lại gần, đầu kề sát đầu tôi, những ngón tay thon dài vạch một mép vạt áo, “Có cần đếm không nhỉ?”
Chúng tôi vừa đếm được chừng mười mấy con, trên người Cố Tiểu Ngũ thoảng làn hương mát lành dịu nhẹ, thứ mùi thơm ấy không thấy có ở người Đột Quyết lẫn người Tây Lương, nó cứ chờn vờn khiến tôi mất cả tự nhiên, khuôn mặt hình như còn nóng bừng, chàng đứng bên tôi gần quá. Bỗng đâu có trận gió bùng lên, có sợi tóc của chàng phẩy hờ trên mặt tôi, nhẹ, mềm, mà rộn rạo, tay nâng vạt áo cầm lòng không đặng thế rồi chỉ vừa bung lỏng mà bầy đom đóm chen nhau bay vụt đi, đốm sáng vương vãi hóa thành vô số những vệt sao sao băng li ti, nhoáng cái những vệt sao băng đã vây quanh tôi và Cố Tiểu Ngũ, ánh sáng rạng rỡ tưới lên khuôn mặt chúng tôi, tôi nhìn thấy đôi mắt đen lay láy của chàng, mà đôi mắt ấy cũng đang nhìn tôi. Tôi nhớ mấy gã hay đứng hát ngoài lều A Độ, bọn họ cũng trông A Độ bằng ánh nhìn nóng rẫy như lửa kiểu này đây, nom khiến người ta quả thật phải mủi lòng. Thế mà ánh mắt của Cố Tiểu Ngũ ôn tồn hơn hẳn, ánh mắt đong đầy bóng hình tôi, bỗng dưng một nơi nào đó trong lòng đã khẽ xốn xang, cảm giác nửa dễ chịu nửa không. Ánh mắt đôi bên giao nhau, bỗng nhiên chàng trở nên thẹn thùng, ngoảnh mặt nhìn đom đóm trên trời, bảo: “Bay cả rồi!”
Tôi bất giác nói: “Giống sao băng nhỉ!”
Chàng cũng cười ha hả: “Sao băng à!”
Đom đóm giăng màn trời, chẳng khác nào vô vàn đốm sao băng vuột khỏi đầu ngón tay chúng tôi, cái lúc thần tiên trên trời rải sao băng xuống, hẳn cũng thế này chăng. Tình này cảnh này tựa là mơ. Tôi bảo mình vĩnh viễn cũng chẳng thể quên được buổi tối hôm ấy bên bờ sông, chúng tôi quây quần với hàng ngàn hàng vạn đom đóm, chúng khẽ khàng lướt qua, đom đóm lần lượt tỏa đi bốn phương tám hướng, tựa những ánh sao băng vạch sắc vàng vào màn đêm. Tôi nhớ trong lời bài hát có cảnh, thần tiên và người chàng yêu đứng giữa con sông, cảnh ấy rực rỡ hoa lệ nhường này chăng.
Đại Thiền Vu sai sứ giả về bẩm báo với Phụ vương tôi rằng, ông đã chọn được cho tôi một gã con rể, chính là Cố Tiểu Ngũ đây. Phụ vương đương tiến thoái lưỡng nam giữa đằng Nguyệt Thị và Trung Nguyên, người nghe vậy tức thì viết một bức thư hồi âm, kính mong ông ngoại quyết định hộ tôi, rồi chủ trì việc cưới gả. Đoạn thư trả lời của cha đến nơi, thì hôn lễ đã bắt đầu được phân nửa.
Tục cưới hỏi của Đột Quyết long trọng song cũng đơn giản, doanh trại quây quần giết mổ biết mấy là thịt cừu, gió đưa rượu nồng thoảng hương nơi nơi. Độ mấy ngày này, Cố Tiểu Ngũ đã kết thân với đằng quý tộc Đột Quyết, người Đột Quyết tôn sùng nhất chính là những bậc anh hùng, trước kia Cố Tiểu Ngũ giết được vua sói mắt trắng, sau này lại thắng được Hách Thất, giờ đây trong suy nghĩ của người Đột Quyết, chàng nghiễm nhiên là vị anh hùng tuổi trẻ đầy triển vọng. Thầy tế xướng điệu ca tụng đầy hân hoan, chúng tôi đạp lên nỉ đỏ, từ từ tiến lên đài cao thờ thánh thần phía thầy tế. Chính lúc đó, bỗng có tiếng vó ngựa dồn dập vọng lại, lính trinh sát lăn long lóc chạy lại đằng Đại Thiền Vu đang ngồi.
Lướt qua đám đông huyên náo, tôi thấy đôi mày Đại Thiền Vu châu đầu lại với nhau, bất chấp vị thầy tế đang căng giọng ca tụng, tôi chạy đến chỗ Đại Thiền Vu: “Ông ơi!”
Đại Thiền Vu xoa đầu tôi, đoạn mỉm cười bảo: “Không sao cả, vua Nguyệt Thị sai đám người đến mắng vốn thôi, tiện đây ông cũng sai lính đi tống cổ chúng.”
Không biết từ lúc nào, Cố Tiểu Ngũ tiến đến đứng sau lưng tôi, chàng khom mình chấm vai thi lễ theo kiểu Đột Quyết: “Bẩm Đại Thiền Vu, xin ngài cho phép cháu được ra đó.”
“Cháu?” Đại Thiền Vu ngước nhìn chàng, “Vua Nguyệt Thị có 5 vạn quân,” Vả lại vua Nguyệt Thị là lão tướng từng trải chốn sa trường, tài bắn tên tinh thông của Cố Tiểu Ngũ là lẽ đã đành, song đối mặt với hàng ngàn hàng vạn quân địch, chỉ e tài bắn tên có tinh thông mấy cũng chẳng ích gì.
“Vậy Đại Thiền Vu nên dụng kế ‘lấy nhàn rỗi đối phó mỏi mệt’, bằng cách sai 3 vạn kỵ binh ra nghênh địch.” Cố Tiểu Ngũ nói, “Nếu như Đại Thiền Vu không yên tâm, xin ngài cử 1 viên tướng quân, cháu sẽ áp sát thế trận, nếu có thể ngấm ngấm bắn lén từ đằng sau, khiến trận tuyến của Nguyệt Thị hỗn loạn, cũng xem như đã góp được chút công mọn.”
Đại Thiền Vu vẫn đương do dự, Hách Thất lại bẩm: “Binh pháp của Trung Nguyên rất chuẩn xác, trên đường đi, chính bọn họ dẫn người đánh bại quân Nguyệt Thị.”
Cuối cùng, Đại Thiền Vu gật đầu, đoạn bảo Cố Tiểu Ngũ: ‘Đi đi rồi đem thủ cấp tướng lĩnh Nguyệt Thị về làm tế phẩm hôn lễ của các cháu dâng lên Thánh thần.”
Cố Tiểu Ngũ chiếu theo lễ tiết của Trung Nguyên, quỳ lạy đoạn thưa: “Mong trời đất phù hộ Đại Thiền Vu!” Lúc chàng đứng dậy, nhìn tôi rồi bảo: “Ta đi rồi trở về.”
Trong lòng tôi bộn bề lo lắng, đánh mắt nhìn chàng quay người trở gót, tôi vội vàng đuổi theo mấy bước, toan lấy dây lưng của mình cài lên eo chàng.
Theo nghi thức hôn lễ, tân lang tân nương trao nhau dây đeo lưng để kết thúc buổi lễ. Hai người chính thức trở thành vợ chồng dưới sự chứng kiến của thần linh. Tôi toan bảo chàng gỡ dây lưng của chàng xuống trao cho tôi, thế mà đám nô tài đã dẫn ngựa của chàng lại. Tôi không kịp nói với chàng dăm câu, chàng đạp lên yên ngựa, đoạn bảo tôi: “Ta đi rồi sẽ về.”
Tôi kéo tay áo chàng, lòng bịn rịn không nỡ buông lơi. Tôi chợt nhớ rất nhiều chuyện, nhớ 3 ngày 3 đêm tôi ngồi đợi trên cồn cát, lúc ấy chỉ bởi đợi người con trai này; tôi nhớ lúc tôi ngã ngựa, chàng cứu tôi; tôi nhớ đêm nọ, chàng kể chuyện cho tôi nghe; nhớ chàng đã giết vua sói mắt trắng, còn thắng cả Hách Thất; tôi nhớ bầy đom đóm ven sông, từ dạo ấy, tôi đã hạ quyết tâm mình và chàng mãi bên nhau trọn đời không rời xa… nhưng giờ đây chàng sắp ra trận, tôi cầm lòng không đặng nỗi niềm vấn vương.
Hình như chàng thấy ánh nhìn nơi tôi, môi nở nụ cười, cúi người vuốt ve bầu má tôi. Những ngón tay âm ấm, không phải tay cha, cũng chẳng giống ông ngoại, hóa ra lại có nét như bàn tay mẹ. Tôi chợt nghĩ tài bắn cung của chàng tinh thông là thế, sao trên tay lại chẳng hằn lấy 1 vết chai?
Lúc tôi đương ngờ ngợ, ngẫm lại vài chuyện vụn vặt. Chàng đã rụt tay về, cả đội 3 vạn quân chuẩn bị xong xuôi, vị tướng quân Đại Thiền Vu phái đi dẫn binh là anh cả đằng họ ngoại của tôi, cũng chính là cháu trai Y Mạc Diên của Đại Thiền Vu. Y Mạc Diên cười bảo tôi: “Muội yên tâm đi, huynh sẽ chăm sóc đệ ấy tử tế.” Người Đột Quyết bấy lâu nay quen chinh chiến, chuyện xông pha chiến trường với họ đơn thuần chẳng khác nào cơm bữa. Tôi quý người anh họ Y Mạc Diên này lắm, cũng bởi lúc nhỏ anh họ thường dẫn tôi đi săn, anh họ hết mực thương yêu, xem tôi như em gái ruột thịt. Tôi lớn tiếng bảo: “Ai cần huynh chăm sóc chàng ấy chứ? Huynh cứ lo thân mình đi đã, muội đợi huynh về uống rượu đấy!” Mọi người đều rộ cười, họ tíu tít bảo: “Tiểu Công Chúa cứ yên tâm, đến lúc thịt dê nướng xong, chúng tôi sẽ mang thủ cấp của tay Nguyệt Thị về.”
Cố Tiểu Ngũ theo sau đuôi cờ của Y Mạc Diên, chàng cũng vận chiến bào da bò của tộc Đột Quyết, khuôn mặt khuất dưới mũ sắt, thấy tôi tìm chàng trong đám đông, chàng cười đoạn giơ tay vẫy. Tôi trông eo chàng thắt chiếc dây lưng, đai lưng của tôi quấn đè lên đai lưng chàng, mới rồi tôi vội vội vàng vàng thắt cho chàng cái nút, tôi không đè được lo nghĩ chốc lát nữa liệu chiếc dây có tuột mất chăng, dây lưng mà bung thì xui xẻo lắm… Thế mà không đợi tôi nghĩ ngợi nhiều, thiên binh vạn mã đã tung vó lao băng băng về đằng chân trời, thoạt đầu còn thấy bóng đổ ngút ngát trải kín tầm mắt, sau cả đạo quân rẽ qua một con dốc, thế là biến mất luôn.
A Độ nom tôi tiu nghỉu đứng mãi chỗ ấy, đành dùng tay ra hiệu với tôi. Tôi hiểu, tôi biết cô bé đang an ủi mình, rằng chỉ chốc nữa thôi là chàng sẽ trở về. Tôi gật đầu, tuy Nguyệt Thị có đến 5 vạn quân, song đống lính tráng ấy lội đường xa đến đây hẳn đã rã rời mệt nhọc, đạo quân tinh nhuệ của Đột Quyết một chọi mười, 3 vạn là đủ để đón đầu. Huống hồ lều chúa còn đây, 10 vạn quân bất cứ lúc nào cũng có thể tức thì tiếp viện.
Dê nướng xèo xèo trên lửa, chúng nô tì dâng sữa ngựa và rượu ngon, nơi nơi rợp tiếng nói cười. Hẳn người ta đều cho rằng, bẵng đi một lúc, thế nào cũng có tin thắng trận báo về và lúc ấy, những binh sĩ của Đột Quyết đang trên đường trở lại. Lòng tôi cứ canh cánh mãi lúc biệt ly, mặt mày không đừng được cái nóng rẫy. Y Mạc Diên về mà thấy, không hiểu sẽ trêu tôi thế nào nữa! Hẳn huynh ấy sẽ bảo tôi không nỡ rời xa Cố Tiểu Ngũ, đợi đến lúc huynh ấy trở về, thế nào cũng đầu têu cho mọi người chế nhạo tôi. Đám thanh niên quý tộc của Đột Quyết thầm coi Mạc Y Diên như người đứng đầu, hội thi hát tối nay, lũ ấy thế nào chẳng ngâm nga trêu đùa. Bụng dạ tôi nao nao buồn phiền, tự nhủ Cố Tiểu Ngũ không biết hát, chàng về, tôi tất phải bảo chàng ngay, kẻo khi đó lại tẽn tò.
Thế mà tôi không hề hay biết, chuyến đi này, họ đi và vĩnh viễn không bao giờ trở lại.
.
Bẵng đi nhiều năm sau, tôi xem sách sử Trung Nguyên ghi chép lại chuyện ngày nọ. Sơ sài có dăm ba câu vô vị: “Tháng bảy, Thái Tử Thừa Ngân đích thân tiến vào Tây Vực, liên minh cùng chư hầu Nguyệt Thị, bốn mươi vạn đại quân tập kích Đột Quyết, Thiết Nhĩ Cách Đạt Thiền Vu của Đột Quyết hung hãn không chịu hàng, bỏ mạng lúc quân binh loạn lạc. Toàn tộc Đột Quyết bị giết thảy hơn hai mươi vạn người, toàn tộc bị diệt vong.”
Ngày đó, tôi cũng quên gần hết, chỉ nhớ Hách Thất trước lúc tắt thở vẫn siết chặt cây cung, trước bụng trước ngực vết đao kiếm chằng chịt, máu tươi xối xả không ngừng, lúc đó xem ra khó qua khỏi. Huynh ấy dốc sức đưa tôi và A Độ lên 1 con ngựa, trăn trối câu cuối cùng: “A Độ, nhớ chăm sóc Công Chúa!”
Tôi trông tên kéo đến đen kìn kịt như làn mưa châu chấu, lại chẳng khác nào hằng hà sa số đốm sao băng, giả sử thần thánh trên cao có buông tay, hẳn khi số sao trong lòng bàn tay ập xuống hết ráo, chúng cũng thế này chăng… A Độ gồng sức quất ngựa đưa tôi cứ chạy, chạy mãi. Bốn bề biển lửa, bốn bề biển máu, bốn bề âm thanh giết chóc. Mấy chục vạn quân Trung Nguyên và Nguyệt Thị như thể vừa chui lên từ lòng đất, dân tộc Đột Quyết dẫu quật cường phản kháng, song cũng không thể địch lại sức tiến công của chúng… Xiết bao người đổ xuống sau lưng chúng tôi, xiết bao máu bắn tóe lên thân thể chúng tôi, ví như không có Hách Thất, chúng tôi hoàn toàn không thể thoát được vòng vây của mấy chục vạn quân kia, có lẽ sau đó Hách Thất cũng bỏ mạng ở lại, tôi và A Độ rong ruổi trên thảo nguyên tròn chặn 6 ngày 6 đêm mới bị toán lính bắt kịp.
Đùi tôi bị thương, mà người A Độ cũng nhiều vết sứt sát, thế nhưng nàng ấy vẫn tuốt đao, che cho tôi ở phía sau. Lòng căm thù như ngọn lửa ngùn ngụt bốc cao, nung nấu thân tôi đến độ khô rát, đầu không ngừng bảo: chính lũ chúng nó, chính lũ chúng nó đã giết ông ngoại; bọn chúng, chính bọn chúng giết Cố Tiểu Ngũ; lũ này, lũ này dồn nhân dân Đột Quyết vào đường diệt vong. Tuy không phải người Đột Quyết, nhưng một nửa dòng máu Đột Quyết đang chảy trong huyết quản tôi. Giờ đây chỉ còn sót lại mình tôi với A Độ, dẫu phải vắt cạn đến giọt máu cuối cùng, tôi cũng không thể khiến ông ngoại bẽ mặt, không thể để nhân dân Đột Quyết mất thể diện.
Lúc đó có gã Trung Nguyên rong ngựa đến, A Độ khua đao xông lên, gã nọ chỉ khẽ khàng nhô tay ra, thanh đao trên tay A Độ đã “phịch” một tiếng đáp trên mặt đất. Tôi lặng người nhìn gã, kẻ này hẳn biết yêu thuật chăng? Không sử dụng tà phép thì sao có thể cướp được đao từ A Độ, mà còn khiến nàng ấy chết trân một chỗ?
A Độ trừng mắt nhìn gã, hiếm khi mới thấy A Độ nổi cơn giận, tôi biết nàng ấy đang tức thật lắm. Tôi nhặt thanh đao lên, vung về phía gã. Tôi đã cáu đến độ bất kể có là ai, mặc xác là ai, tôi cũng phải giết bằng được gã!
Kẻ nọ cũng chỉ giơ tay, điểm nhẹ lên người tôi một cái, thế rồi mắt tối sầm, lúc ấy chẳng còn hay biết gì.
Khi choàng tỉnh, đã thấy đầu mình cắm xuống, cả người vắt ngang yên ngựa như một bao kê, móng ngựa xối bùn lên mặt mũi, ngặt không sao nhúc nhích nổi. Bốn phương tám hướng trông toàn vó ngựa, vô vàn chân ngựa nhấp nhô như cơ man lau cỏ dậy sóng trước gió, tôi chếnh choáng một chặp, mắt mũi nhắm tịt. Chẳng rõ bao lâu sau mới thấy ngựa dừng bước, tôi bị xách khỏi lưng ngựa, khốn nỗi đùi bị điểm huyệt bấy lâu, đứng chẳng còn vững, lúc ấy lăn nhào ra đất.
Nền phủ lớp nỉ dày, hẳn nơi đây là lều trại của tướng lĩnh Trung Nguyên, là của gã quan đô hộ nào đó chăng? Tôi ngước trông lên, ấy thế mà đập vào mắt lại là Cố Tiểu Ngũ, xiết bao dũng sĩ Đột Quyết đã tử trận, nhất là 3 vạn quân Đột Quyết tiên phong đi nghênh địch kia, nào có ai sống sót trở về, thế mà Cố Tiểu Ngũ vẫn còn sờ sờ đấy ư.
Chàng vẫn tồn tại trên đời này, không những vậy, chàng còn khoác trên mình áo quần Trung Nguyên, chẳng đội giáp mà vẫn toát lên vẻ nho nhã của người thư sinh Trung Nguyên, nhưng tôi biết, lều này tuyệt nhiên không phải chỗ cho thư sinh ở. Quanh chàng vây đầy vệ binh, gã tướng lĩnh bắt tôi về – vừa tiến vào đã quỳ lạy Cố Tiểu Ngũ, mũ giáp trên người chà sát những tiếng lanh lảnh, gã dập đầu theo lối lễ tiết tối cao của Trung Nguyên, nghe nói chỉ khi người Trung Nguyên bái kiến bậc quý tôn đứng dầu mới làm lễ này. Thoắt cái tôi chợt hiểu, chính Cố Tiểu Ngũ, thì ra Cố Tiểu Ngũ là nội ứng của Trung Nguyên! Chính chàng, chính chàng dẫn địch tập kích. Chẳng hiểu thu góp sức lực đâu ra, mà tôi gồng được mình phỉ nhổ về phía đó: “Đồ gian tế!”
Lũ vệ binh xung quanh đấy lớn tiếng quát tháo, có kẻ đá vào đùi tôi, đùi tôi nhũn oặt lăn kềnh xuống đất. Tôi thấy gã quan đô hộ đang khom mình vái Cố Tiểu Ngũ, bọn chúng nói tiếng Trung Nguyên, tôi nghe không hiểu lấy một câu. Song Cố Tiểu Ngũ vẫn chẳng hề liếc phía tôi, gã quan đô hộ nói rất nhiều lời, tôi nom sắc mặt Cố Tiểu Ngũ sa sầm, sau cùng lũ người đó lui khỏi lều, Cố Tiểu Ngũ cầm dao, tiến về phía tôi.