Chương : 77
NHỮNG CĂN NHÀ CŨ TRÊN PHỐ 58 đều tối đen và yên ắng. 4 giờ 30 sáng, ở một khu dân cư rất ít hoạt động trước 10 giờ. Tôi quan sát từ cự ly năm mươi mét. Từ một ô cửa bị che khuất trên vỉa hè phía bên kia đại lộ Madison. Ngang cánh cửa duy nhất có nút bấm chuông có chăng sợi băng bảo vệ hiện trường của cảnh sát. Nhà bên trái trong tổng số ba căn. Căn mà tầng trệt có nhà hàng đã bỏ không.
Không đèn đóm ở cửa sổ.
Không có dấu hiệu nào là có người.
Băng bảo vệ hiện trường trông vẫn còn nguyên. Và điều không thể thiếu là nó được dán niêm phong chính thức của NYPD. Một tờ giấy hình chữ nhật dán bằng hồ ngang khe giữa cánh và khung cửa, cao ngang tầm lỗ khóa. Có lẽ nó vẫn nằm đó, không bị xé rách.
Nghĩa là có một cửa hậu.
Đó là điều có thể xảy ra, khi trong căn này có nhà hàng. Các nhà hàng tạo ra mọi loại rác khó chịu. Suốt cả ngày. Nó bốc mùi và thu hút đám chuột. Không được phép chất đống rác trên vỉa hè. Nên bỏ rác trong các hộp đóng kín bên ngoài cửa bếp rồi thì lăn các hộp ra rìa đường để người ta đi thu gom vào ban đêm.
Tôi di chuyển về phía Nam hai mươi mét để mở rộng góc quan sát. Không trông thấy lối vào để mở nào. Các căn nhà đều sát nhau dọc hết cả dãy. Cạnh cửa có băng bảo vệ hiện trường là cửa sổ của nhà hàng cũ. Nhưng cạnh đó là một cánh cửa khác. Xét về mặt kiến trúc, nó là một phần của nhà hàng xóm với căn nhà có nhà hàng. Nó được dùng để mở ra tầng một của tòa nhà kế tiếp. Song nó trơ trụi, màu đen, không có bảng hiệu, hơi sứt sẹo, không có bậc dẫn lên, lại rộng hơn nhiều so với một cánh cửa thông thường. Phía ngoài không có tay nắm. Chỉ có lỗ khóa. Nếu không có chìa thì chỉ có thể mở từ phía trong. Tôi dám cá rằng nó dẫn tới một lối vào được che đi. Tôi cho rằng láng giềng của nhà hàng có chiều rộng đủ cho hai phòng ở tầng trệt và ba phòng ở các tầng trên. Ở tầng hai, căn nhà liền khối. Nhưng phía dưới, ở ngang mặt đường thì có những lối đi dẫn đến các cửa vào phía sau, tất cả đều được quây lại và xây chồng phía trên. Ở Manhattan, quyền sử dụng không gian đáng cả gia tài. Thành phố tự bán mình cả ở phía dưới và bên trên, cũng như cạnh này lẫn cạnh khác.
Tôi trở lại ô cửa bị che khuất. Đầu tôi đang đếm thời gian. Đã bốn mươi tư phút kể từ thời điểm đám quân của Lila phải bắt tôi. Có lẽ là ba mươi tư phút kể từ thời điểm Lila trông chờ cuộc gọi thông báo nhiệm vụ hoàn thành. Có thể hai mươi tư phút từ lúc rốt cuộc cô ta chấp nhận rằng mọi thứ đã không diễn ra êm đẹp. Có thể mười bốn phút tính từ lúc lần đầu tiên cô ta cảm thấy rất muốn gọi cho tôi.
Lila, cô nói nhiều quá.
Tôi lui vào bóng tối, chờ đợi. Khu vực phía trước tôi trống trơn tuyệt đối. Thi thoảng có xe hơi hoặc taxi chạy trên đại lộ Madison. Chẳng hề có xe cộ gì trên phố 58. Chẳng chỗ nào thấy khách bộ hành. Không có người dắt chó, không vị khách dự tiệc nào chệnh choạng trở về nhà. Giờ thu rác đã hết. Giờ chuyển bánh mì vẫn chưa bắt đầu.
Sự chết chóc của đêm.
Thành phố không ngủ ít nhất đang nghỉ ngơi một cách thoải mái.
Tôi đợi.
Ba phút sau điện thoại trong túi tôi bắt đầu rung.
Tôi vẫn dõi mắt vào tòa nhà có nhà hàng và mở máy điện thoại. Đưa lên tai nói, “Gì đây?”
Cô ta hỏi, “Chuyện gì xảy ra thế?”
“Cô đã không xuất hiện.”
“Ông đã chờ tôi xuất hiện à?”
“Tôi không nghĩ nhiều đến chuyện đó.”
“Chuyện gì đã xảy ra với người của tôi?”
“Họ đang trong hệ thống.”
“Chúng ta vẫn có thể thỏa thuận.”
“Như thế nào? Cô không thể nào mất thêm người nào nữa.”
“Chúng ta có thể dàn xếp gì đó.”
“Được rồi. Nhưng giá chỉ có tăng.”
“Bao nhiêu?”
“Bảy mươi lăm.”
“Giờ ông đang ở đâu?”
“Ngay bên ngoài nhà cô.”
Có một khoảng ngập ngừng.
Có sự di chuyển ở cửa sổ. Tầng bốn, cửa sổ bên trái trong số hai ô. Một phòng tối. Lờ mờ như ma, gần như không thể nhận ra ở cự ly năm mươi mét.
Có thể là rèm dịch chuyển.
Có thể là một chiếc sơ mi trắng.
Có thể chỉ là tưởng tượng.
Cô ta nói, “Không, ông không ở ngoài nhà tôi.”
Nhưng nghe giọng cô ta không chắc chắn.
Cô ta nói, “Ông muốn gặp nhau ở đâu?”
Tôi nói: “Chuyện đó đâu thành vấn đề. Cô sẽ không xuất hiện mà.”
“Tôi sẽ cử ai đó.”
“Cô không thể làm thế. Cô chỉ còn sáu gã cuối cùng thôi.”
Cô ta dợm nói gì đó nhưng ngừng bặt.
Tôi nói, “Quảng trường Times.”
“OK.”
“10 giờ sáng mai.”
“Tại sao thế?”
“Tôi muốn có người ở xung quanh.”
“Tầm đó muộn quá.”
“Muộn đối với việc gì?”
“Tôi muốn có nó bây giờ.”
“10 giờ sáng mai. Chấp nhận hoặc thôi.”
Lila nói, “Cứ giữ máy đã.”
“Tại sao?”
“Tôi phải đếm tiền. Để chắc chắn rằng tôi có bảy mươi lăm ngàn.”
Tôi mở khóa áo khoác.
Tôi đeo găng tay vào.
Tôi nghe thấy tiếng Lila Hoth, đang thở.
Cách năm mươi mét, cánh cửa đen mở ra. Lối vào bị che kín. Một người đàn ông bước ra. Nhỏ, da sẫm, rắn chắc. Và cảnh giác. Hắn ngó vỉa hè, bên trái rồi bên phải. Hắn nhìn ngang phố.
Tôi bỏ điện thoại vào trong túi. Vẫn mở. Vẫn đang kết nối.
Tôi nâng khẩu MP5 lên.
Súng tiểu liên được thiết kế dành cho cận chiến, nhưng ở cự ly trung bình nhiều loại cũng chính xác như súng trường. Chắc chắn súng của hãng H & K đủ độ tin cậy ở cự ly tối thiểu một trăm mét. Khẩu của tôi có đầu ngắm thép. Tôi bấm lẫy chọn xuống chế độ bắn phát một rồi hướng hình vuông của đầu ngắm vào giữa người gã đàn ông.
Cách năm mươi mét, hắn bước ra rìa phố. Lia mắt sang phải, lia mắt sang trái, lia khoảng trước mặt. Hắn cũng chẳng nhìn thấy gì, giống tôi. Chỉ có bầu không khí mát mẻ và màn sương mỏng của đêm.
Hắn quay trở lại cửa.
Một chiếc taxi chạy ngang trước mặt tôi.
Cách năm mươi mét, gã đàn ông đẩy cửa.
Tôi đợi tới tận khi tôi cho rằng toàn bộ đà của gã đã dồn về phía trước. Rồi tôi kéo cò nã một viên đạn vào lưng gã. Ngay tâm. Một viên đạn tốc độ thấp. Với độ trễ có thể nhận thấy. Bóp cò, trúng đích. Dòng SD được quảng cáo là hoạt động êm ru. Không phải thế. Nó có phát ra âm thanh. Lớn hơn tiếng nhổ bọt lịch sự thường thấy trong phim ảnh. Nhưng không tệ hơn tiếng “thịch” khi ta đánh rơi cuốn danh bạ điện thoại từ trên bàn có độ cao chừng một mét. Có thể nhận ra trong bất kỳ môi trường nào, nhưng trong một thành phố thì không đáng kể.
Cách năm mươi mét, gã đàn ông chúi về phía trước và đổ xuống, phần thân trên nằm trong lối vào còn hai chân vẫn ở ngoài vỉa hè. Tôi găm vào gã viên thứ hai để đảm bảo an toàn, thả cho khẩu súng tự do trong mức quai đeo cho phép rồi lấy điện thoại ra khỏi túi.
Tôi nói, “Cô vẫn ở đó chứ?”
Cô ta nói, “Chúng tôi vẫn đang đếm.”
Cô đếm thiếu một rồi, tôi nghĩ.
Tôi kéo khóa áo khoác lên. Bắt đầu bước. Tôi tiến nhưng vẫn bám song song với phía bên kia đại lộ Madison và nhanh chóng cắt vào phố 58 vài mét. Tôi băng ngang đại lộ và tiến vào góc phố, vai tì mạnh vào mặt tiền mấy căn nhà. Tôi cần ẩn ngoài tầm quan sát của cô ta. Tôi băng qua căn thứ nhất. Qua căn thứ hai.
Tôi nói khi đang ở phía dưới cô ta mười hai mét, “Tôi phải đi đây. Tôi mệt mỏi rồi. Quảng trường Times, 10 giờ sáng mai, được chưa?”
Cô ta trả lời từ độ cao mười hai mét phía trên tôi. Cô ta nói, “OK, tôi sẽ cử ai đó tới.”
Tôi ngắt máy, bỏ điện thoại vào túi và lôi gã đàn ông đã chết vào hẳn trong hẻm. Tôi khép cửa lại phía sau, từ từ và yên lặng.
Không đèn đóm ở cửa sổ.
Không có dấu hiệu nào là có người.
Băng bảo vệ hiện trường trông vẫn còn nguyên. Và điều không thể thiếu là nó được dán niêm phong chính thức của NYPD. Một tờ giấy hình chữ nhật dán bằng hồ ngang khe giữa cánh và khung cửa, cao ngang tầm lỗ khóa. Có lẽ nó vẫn nằm đó, không bị xé rách.
Nghĩa là có một cửa hậu.
Đó là điều có thể xảy ra, khi trong căn này có nhà hàng. Các nhà hàng tạo ra mọi loại rác khó chịu. Suốt cả ngày. Nó bốc mùi và thu hút đám chuột. Không được phép chất đống rác trên vỉa hè. Nên bỏ rác trong các hộp đóng kín bên ngoài cửa bếp rồi thì lăn các hộp ra rìa đường để người ta đi thu gom vào ban đêm.
Tôi di chuyển về phía Nam hai mươi mét để mở rộng góc quan sát. Không trông thấy lối vào để mở nào. Các căn nhà đều sát nhau dọc hết cả dãy. Cạnh cửa có băng bảo vệ hiện trường là cửa sổ của nhà hàng cũ. Nhưng cạnh đó là một cánh cửa khác. Xét về mặt kiến trúc, nó là một phần của nhà hàng xóm với căn nhà có nhà hàng. Nó được dùng để mở ra tầng một của tòa nhà kế tiếp. Song nó trơ trụi, màu đen, không có bảng hiệu, hơi sứt sẹo, không có bậc dẫn lên, lại rộng hơn nhiều so với một cánh cửa thông thường. Phía ngoài không có tay nắm. Chỉ có lỗ khóa. Nếu không có chìa thì chỉ có thể mở từ phía trong. Tôi dám cá rằng nó dẫn tới một lối vào được che đi. Tôi cho rằng láng giềng của nhà hàng có chiều rộng đủ cho hai phòng ở tầng trệt và ba phòng ở các tầng trên. Ở tầng hai, căn nhà liền khối. Nhưng phía dưới, ở ngang mặt đường thì có những lối đi dẫn đến các cửa vào phía sau, tất cả đều được quây lại và xây chồng phía trên. Ở Manhattan, quyền sử dụng không gian đáng cả gia tài. Thành phố tự bán mình cả ở phía dưới và bên trên, cũng như cạnh này lẫn cạnh khác.
Tôi trở lại ô cửa bị che khuất. Đầu tôi đang đếm thời gian. Đã bốn mươi tư phút kể từ thời điểm đám quân của Lila phải bắt tôi. Có lẽ là ba mươi tư phút kể từ thời điểm Lila trông chờ cuộc gọi thông báo nhiệm vụ hoàn thành. Có thể hai mươi tư phút từ lúc rốt cuộc cô ta chấp nhận rằng mọi thứ đã không diễn ra êm đẹp. Có thể mười bốn phút tính từ lúc lần đầu tiên cô ta cảm thấy rất muốn gọi cho tôi.
Lila, cô nói nhiều quá.
Tôi lui vào bóng tối, chờ đợi. Khu vực phía trước tôi trống trơn tuyệt đối. Thi thoảng có xe hơi hoặc taxi chạy trên đại lộ Madison. Chẳng hề có xe cộ gì trên phố 58. Chẳng chỗ nào thấy khách bộ hành. Không có người dắt chó, không vị khách dự tiệc nào chệnh choạng trở về nhà. Giờ thu rác đã hết. Giờ chuyển bánh mì vẫn chưa bắt đầu.
Sự chết chóc của đêm.
Thành phố không ngủ ít nhất đang nghỉ ngơi một cách thoải mái.
Tôi đợi.
Ba phút sau điện thoại trong túi tôi bắt đầu rung.
Tôi vẫn dõi mắt vào tòa nhà có nhà hàng và mở máy điện thoại. Đưa lên tai nói, “Gì đây?”
Cô ta hỏi, “Chuyện gì xảy ra thế?”
“Cô đã không xuất hiện.”
“Ông đã chờ tôi xuất hiện à?”
“Tôi không nghĩ nhiều đến chuyện đó.”
“Chuyện gì đã xảy ra với người của tôi?”
“Họ đang trong hệ thống.”
“Chúng ta vẫn có thể thỏa thuận.”
“Như thế nào? Cô không thể nào mất thêm người nào nữa.”
“Chúng ta có thể dàn xếp gì đó.”
“Được rồi. Nhưng giá chỉ có tăng.”
“Bao nhiêu?”
“Bảy mươi lăm.”
“Giờ ông đang ở đâu?”
“Ngay bên ngoài nhà cô.”
Có một khoảng ngập ngừng.
Có sự di chuyển ở cửa sổ. Tầng bốn, cửa sổ bên trái trong số hai ô. Một phòng tối. Lờ mờ như ma, gần như không thể nhận ra ở cự ly năm mươi mét.
Có thể là rèm dịch chuyển.
Có thể là một chiếc sơ mi trắng.
Có thể chỉ là tưởng tượng.
Cô ta nói, “Không, ông không ở ngoài nhà tôi.”
Nhưng nghe giọng cô ta không chắc chắn.
Cô ta nói, “Ông muốn gặp nhau ở đâu?”
Tôi nói: “Chuyện đó đâu thành vấn đề. Cô sẽ không xuất hiện mà.”
“Tôi sẽ cử ai đó.”
“Cô không thể làm thế. Cô chỉ còn sáu gã cuối cùng thôi.”
Cô ta dợm nói gì đó nhưng ngừng bặt.
Tôi nói, “Quảng trường Times.”
“OK.”
“10 giờ sáng mai.”
“Tại sao thế?”
“Tôi muốn có người ở xung quanh.”
“Tầm đó muộn quá.”
“Muộn đối với việc gì?”
“Tôi muốn có nó bây giờ.”
“10 giờ sáng mai. Chấp nhận hoặc thôi.”
Lila nói, “Cứ giữ máy đã.”
“Tại sao?”
“Tôi phải đếm tiền. Để chắc chắn rằng tôi có bảy mươi lăm ngàn.”
Tôi mở khóa áo khoác.
Tôi đeo găng tay vào.
Tôi nghe thấy tiếng Lila Hoth, đang thở.
Cách năm mươi mét, cánh cửa đen mở ra. Lối vào bị che kín. Một người đàn ông bước ra. Nhỏ, da sẫm, rắn chắc. Và cảnh giác. Hắn ngó vỉa hè, bên trái rồi bên phải. Hắn nhìn ngang phố.
Tôi bỏ điện thoại vào trong túi. Vẫn mở. Vẫn đang kết nối.
Tôi nâng khẩu MP5 lên.
Súng tiểu liên được thiết kế dành cho cận chiến, nhưng ở cự ly trung bình nhiều loại cũng chính xác như súng trường. Chắc chắn súng của hãng H & K đủ độ tin cậy ở cự ly tối thiểu một trăm mét. Khẩu của tôi có đầu ngắm thép. Tôi bấm lẫy chọn xuống chế độ bắn phát một rồi hướng hình vuông của đầu ngắm vào giữa người gã đàn ông.
Cách năm mươi mét, hắn bước ra rìa phố. Lia mắt sang phải, lia mắt sang trái, lia khoảng trước mặt. Hắn cũng chẳng nhìn thấy gì, giống tôi. Chỉ có bầu không khí mát mẻ và màn sương mỏng của đêm.
Hắn quay trở lại cửa.
Một chiếc taxi chạy ngang trước mặt tôi.
Cách năm mươi mét, gã đàn ông đẩy cửa.
Tôi đợi tới tận khi tôi cho rằng toàn bộ đà của gã đã dồn về phía trước. Rồi tôi kéo cò nã một viên đạn vào lưng gã. Ngay tâm. Một viên đạn tốc độ thấp. Với độ trễ có thể nhận thấy. Bóp cò, trúng đích. Dòng SD được quảng cáo là hoạt động êm ru. Không phải thế. Nó có phát ra âm thanh. Lớn hơn tiếng nhổ bọt lịch sự thường thấy trong phim ảnh. Nhưng không tệ hơn tiếng “thịch” khi ta đánh rơi cuốn danh bạ điện thoại từ trên bàn có độ cao chừng một mét. Có thể nhận ra trong bất kỳ môi trường nào, nhưng trong một thành phố thì không đáng kể.
Cách năm mươi mét, gã đàn ông chúi về phía trước và đổ xuống, phần thân trên nằm trong lối vào còn hai chân vẫn ở ngoài vỉa hè. Tôi găm vào gã viên thứ hai để đảm bảo an toàn, thả cho khẩu súng tự do trong mức quai đeo cho phép rồi lấy điện thoại ra khỏi túi.
Tôi nói, “Cô vẫn ở đó chứ?”
Cô ta nói, “Chúng tôi vẫn đang đếm.”
Cô đếm thiếu một rồi, tôi nghĩ.
Tôi kéo khóa áo khoác lên. Bắt đầu bước. Tôi tiến nhưng vẫn bám song song với phía bên kia đại lộ Madison và nhanh chóng cắt vào phố 58 vài mét. Tôi băng ngang đại lộ và tiến vào góc phố, vai tì mạnh vào mặt tiền mấy căn nhà. Tôi cần ẩn ngoài tầm quan sát của cô ta. Tôi băng qua căn thứ nhất. Qua căn thứ hai.
Tôi nói khi đang ở phía dưới cô ta mười hai mét, “Tôi phải đi đây. Tôi mệt mỏi rồi. Quảng trường Times, 10 giờ sáng mai, được chưa?”
Cô ta trả lời từ độ cao mười hai mét phía trên tôi. Cô ta nói, “OK, tôi sẽ cử ai đó tới.”
Tôi ngắt máy, bỏ điện thoại vào túi và lôi gã đàn ông đã chết vào hẳn trong hẻm. Tôi khép cửa lại phía sau, từ từ và yên lặng.