Chương : 17
Moore đi bộ quanh khu nhà. Lần này anh không để ý đến sự nóng bức. Anh thấy lạnh người vì những hình ảnh anh nhìn thấy trên đoạn băng. Anh thấy nhẹ nhõm khi vừa ra khỏi phòng họp. Căn phòng đó đã chứa đầy nỗi sợ hãi. Ở Savannah, không khí quánh đặc như nước si-rô và những ánh đèn màu xanh nhẹ của thành phố này khiến anh thấy khó chịu. Thành phố Boston có những góc cạnh mạnh mẽ, những giọng nói sang sảng, mỗi tòa nhà, mỗi khuôn mặt cau có đều rõ nét. Dường như anh đang nhìn Savannah qua một tấm băng gạc, thành phố với những nụ cười ngượng nghịu và những giọng nói như gió thoảng. Anh tự hỏi mảng tối nào mà anh không nhìn thấy.
Khi quay lại phòng điều tra, anh thấy Singer đang đánh máy tính.
- Khoan đã - Singer nói. Anh ta nhấn vào mục Kiểm tra lỗi chính tả. Chúa sẽ tha lỗi cho bất cứ lỗi chính tả nào trong những bản báo cáo của anh ta. Anh ta hài lòng nhìn Moore - Có chuyện gì thế?
- Anh đã bao giờ tìm thấy sổ ghi địa chỉ và số điện thoại của Capra chưa?
- Sổ nào?
- Hầu như ai cũng có một cuốn sổ ghi địa chỉ và số điện thoại riêng để bên điện thoại. Tôi không thấy cuốn sổ trong căn phòng của hắn trong cuộn băng, và tôi cũng không tìm thấy nó trong danh sách những tài sản các vị đã thu làm tang vật.
- Anh đang bới lại chuyện hai năm trước. Nếu nó không có trong danh sách của chúng tôi thì bởi vì hắn không có cuốn sổ đó.
- Hoặc ai đó đã lấy nó đi trước khi các vị đến.
- Anh đang tìm gì? Tôi nghĩ anh đến đây để nghiên cứu về cách thức gây án của Capra, chứ không phải định phá lại vụ án đấy chứ?
- Tôi quan tâm đến những người bạn của Capra, những người biết rõ về hắn.
- Lạy Chúa! Chẳng ai hiểu hắn hết. chúng tôi đã hỏi cung các bác sỹ và y tá làm việc cùng hắn, bà chủ nhà và hàng xóm của hắn. Tôi đã lái xe đến Atlanta nói chuyện với cô hắn, người bà con duy nhất của hắn còn sống.
- Vâng, tôi đã đọc qua những lần hỏi cung.
- Vậy thì anh đã biết tất cả mọi người đều bị hắn gạt. Tôi nghe ai cũng nhận xét: Một bác sỹ tận tụy! Một người đàn ông thật lịch sự! - Singer khịt mũi.
- Họ không biết thực sự Capra là người thế nào.
Singer xoay ghế về phía máy tính.
- Khốn kiếp, không ai biết những con quỷ thực sự là những kẻ thế nào.
Đã đến lúc xem đoạn băng cuối cùng. Moore để dành cuộn băng này xem sau vì anh biết anh chưa sẵn sàng để xem những hình ảnh trong đó. Anh đã cố bình tĩnh xem những đoạn băng khác, đã ghi chú khi anh nghiên cứu kỹ phòng ngủ của Lisa Fox, Jennifer Torregrossa và Ruth Voorhees. Anh đã xem đi xem lại các vết máu bắn lên, những vết dây buộc hằn trên cổ tay các nạn nhân và ánh mắt vô hồn của họ. Anh có thể xem những đoạn băng đó và không có cảm xúc gì vì anh không biết những cô gái đó. Anh không nghe thấy tiếng nói của họ vang vọng trong đầu mình. Anh không tập trung vào các nạn nhân, mà là vào bạo lực của một gã đã để lại trong phòng ngủ của họ. Anh bỏ băng ghi hình hiện trường trong vụ án của Voorhees ra, đặt nó lên bàn. Anh phân vân cầm đoạn băng còn lại. Trên nhãn mác có ghi ngày, số hồ sơ vụ án và những dòng chữ: "Nơi ở của Catherine Cordell".
Anh nghĩ sẽ dừng việc xem băng lại đến sáng mai. Khi đó anh sẽ thấy sảng khoái. Anh đã ở trong phòng này cả ngày. Anh cầm cuộn băng, cân nhắc xem nên làm gì.
Một thoáng trước đó, anh thấy Singer đứng ở lối vào, nhìn anh.
- Trời! Anh vẫn ở đây - Singer ngạc nhiên.
- Tôi cần phải xem qua nhiều thứ.
- Anh đã xem hết các cuộn băng chưa?
- Trừ cuộn băng này.
Singer nhìn nhãn.
- Cordell.
- Đúng vậy.
- Tiếp tục đi, hãy bật lên! Tôi có thể bổ sung thêm vài chi tiết.
Moore cho cuộn băng vào đầu máy, ấn nút Chạy.
Họ đang nhìn mặt trước ngôi nhà của Catherine vào ban đêm. Hiên nhà được thắp sáng. Toàn bộ đèn bên trong đều được bật lên. Trên đoạn băng, anh nghe thấy người thu hình nói ngày và thời gian - hai giờ sáng - và tên của anh ta. Đó lại là Spiro Pataki. Dường như anh ta là người quay phim được mọi người yêu mến. Moore nghe thấy những âm thanh nền - những giọng nói, tiếng còi xe báo động lờ mờ. Pataki lại thực hiện thói quen là đi quanh ngôi nhà. Moore lờ mờ thấy một đám đông những người hàng xóm đứng nhìn ngoài dải ngăn ở cách hiện trường. Mặt họ sáng trưng vì ánh đèn của những chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ bên đường. Điều này khiến anh ngạc nhiên vì anh biết khi đó đã quá nửa đêm. Chắc chắn việc đó rất ồn ào nên đã đánh thức nhiều hàng xóm.
Pataki trở lại ngôi nhà, tiến về phía cửa trước.
- Những phát súng - Singer nói - Đó là những bản báo cáo đầu tiên của chúng tôi. Người phụ nữ ở bên kia đường nghe thấy tiếng súng nổ, rồi sau đó rất lâu mới có tiếng súng thứ hai. Bà ấy đã gọi 911. Nhân viên đầu tiên đến hiện trường bảy phút sau đó. Hai phút sau xe cứu thương được gọi đến.
Moore nhớ người phụ nữ bên kia đường đã nhìn anh qua ô cửa.
- Tôi đã đọc lời khai của bà hàng xóm - Moore nói - Bà ấy nói đã không thấy bất cứ ai ra từ cửa trước của ngôi nhà.
- Đúng vậy. Bà ấy chỉ nghe thấy hai tiếng súng. Bà ấy ra khỏi giường ngay sau phát súng đầu tiên và nhìn ra cửa sổ. Rồi có lẽ là năm phút sau, bà ấy nghe thấy phát súng thứ hai.
Năm phút sau, Moore nghĩ. Trong suốt thời gian trống đó đã có chuyện gì?
Trên màn hình, máy quay đã tiến đến cửa trước và vừa mới vào nhà. Moore thấy một buồng nhỏ mở cửa, bên trong có treo vài chiếc áo khoác, một cái ô và một máy hút bụi. Giờ cảnh quay đã thay đổi, lướt qua phòng khách, Trên chiếc bàn thấp gần ghế dài có hai cốc nước, một trong hai cốc vẫn còn chất lỏng trông như bia.
- Cordell đã mời hắn vào trong - Singer nói - Họ đã uống vài cốc. Cô ấy vào phòng tắm, quay lại và uống hết chỗ bia. Trong vòng một giờ, thuốc Rohypnol đã có tác dụng.
Chiếc ghế dài có màu hồng đào, với những mẫu hoa văn nhỏ nhắn rất nữ tính. Moore không thấy Catherine là kiểu phụ nữ thích hoa nhưng thật sự cô thích chúng. Những bông hoa trên rèm cửa, trên những gối đệm đặt ở ghế dài. Và có rất nhiều màu sắc. Ở Savannah, cô đã sống với nhiều màu sắc. Anh hình dung cô ngồi đó uống nước với Andrew Capra, thông cảm lắng nghe những lo lắng của hắn về công việc trong khi thuốc Rohypnol từ từ đi vào máu qua thành dạ dày của cô. Những phân tử thuốc gây mê cuộn lên não cô và giọng nói của Capra bắt đầu nhỏ dần.
Giờ họ đi vào phòng bếp. Máy quay quét một lượt quanh nhà, ghi lại từng phòng khi họ đến vào lúc hai giờ sáng thứ bảy đó. Bồn rửa bát trong bếp chỉ có một cốc nước.
Moore đột nhiên cúi về phía trước.
- Cái cốc đó - các anh đã phân tích mẫu ADN từ nước bọt bám trên cốc chưa?
- Sao lại phải làm vậy?
- Các anh không biết là ai đã uống nước trong cái cốc đó phải không?
- Chỉ có hai người trong nhà khi cảnh sát đầu tiên đến hiện trường. Capra và Cordell.
- Có hai cốc trên bàn. Vậy ai đã uống nước trong cốc thứ ba?
- Khốn kiếp, có lẽ nó đã nằm trong bồn nước cả ngày. Nó không khớp với tình huống chúng tôi gặp ở hiện trường.
Người quay phim đã quay xong nhà bếp và đi tiếp ra hành lang.
Moore cầm chiếc điều khiển từ xa, ấn nút tua lại. Anh tua lại đoạn băng trước khi vào bếp.
- Gì vậy? - Singer hỏi.
Moore không trả lời. Anh cúi sát hơn, xem kỹ hình ảnh đang được tua lại trên màn hình. Chiếc tủ lạnh có dính những nam châm hình hoa quả. Những lọ đựng bột mì và đường nằm ở trên mặt bếp. Bồn nước có một chiếc cốc duy nhất. Rồi máy quay lướt nhanh qua gian bếp, hướng về phía hành lang.
Moore lại ấn nút Tua lại.
- Anh đang nhìn gì vậy? - Singer suốt ruột.
Đoạn băng trở về chỗ có chiếc cốc. Máy quay lại lia về phía hành lang. Moore ấn nút Dừng.
- Đây - anh nói - cửa bếp. Nó dẫn đến đâu?
- À... sân sau, mở ra một bãi cỏ.
- Và sau bãi cỏ đó là gì?
- Môt cái sân cạnh đó, môt dãy nhà khác.
- Anh có nói chuyện với chủ của sân sau đó không? Ông hay bà ấy có nghe thấy tiếng súng không?
- Việc đó thì có nghĩa gì?
Moore đứng lên, lại gần màn hình.
- Cửa bếp - anh nói và gõ lên màn hình - Có một dây khóa. Và dây khóa vẫn mở.
Singer dừng lại.
- Nhưng cánh cửa đó đã đóng lại. Anh thấy vị trí tay cầm chứ?
- Đúng vậy. Đó là loại tay cầm mà nhốt người ta ở bên ngoài.
- Ý anh là gì?
- Tại sao cô ấy ấn nút đó mà lại không khóa cửa lại? Những ai khóa cửa vào ban đêm đều làm hai việc đó cùng lúc. Họ ấn nút, rồi chốt cửa. Cô ấy đã bỏ qua bước thứ hai.
- Có thể cô ấy quên mất.
- Đã có ba cô gái khác bị giết ở Savannah. Cô ấy đã lo sợ đến mức giấu súng dưới giường. Tôi nghĩ cô ấy không quên - Anh nhìn Singer - Có thể ai đó đã ra bằng cửa bếp.
- Chỉ có hai người trong ngôi nhà đó. Cordell và Capra.
Moore cân nhắc những điều anh sắp nói. Dù được hay mất thì anh cũng sẽ nói thẳng.
Lúc này Singer đã biết cuộc nói chuyện sẽ đi đến đâu.
- Ý anh là Capra có đồng bọn.
- Đúng.
- Đó là một kết luận thật tuyệt vời chỉ do một dây khóa không cài.
Moore hít sâu.
- Còn nữa. Vào đêm Catherine Cordell bị tấn công, cô ấy đã nghe thấy một giọng nói khác trong nhà mình. Một người đàn ông đang nói chuyện với Capra.
- Cô ấy chưa bao giờ cho tôi biết điều đó.
- Cô ấy đã nói điều đó trong quá trình chúng tôi thẩm tra bằng thuật thôi miên.
Singer cười phá lên.
- Anh có nhà tâm lý nào để chứng minh điều đó không? Vì nếu có thì tôi sẽ tin lắm đấy.
- Nó giải thích tại sao tên Bác sỹ phẫu thuật lại biết tường tận những kỹ thuật của Capra. Hai tên đó là đồng bọn. Và Bác sỹ phẫu thuật đang thừa kế khi nạn nhân duy nhất của chúng sống sót.
- Thế giới này có khối phụ nữ. Sao hắn lại tập trung vào cô ấy?
- Một công việc dang dở.
- Đúng vậy, tôi đã hiểu giả thuyết đó hơn rồi - Singer rời ghế - Cordell đã quên không khóa cửa nhà bếp. Gã ở Boston đã bắt chước những gì hắn thấy trên báo. Và nhà thôi miên của các vị đã khơi lại những ký ức sai của cô ấy - Anh ta lắc đầu đi về phía cửa và nói với anh một câu châm biếm - Hãy báo cho tôi biết khi anh bắt được tên sát nhân thật sự.
Moore chỉ bận tâm một chút sau nhừng lời trao đổi đó. Anh biết Singer đang bảo vệ công cán của chính mình trong vụ án. Anh không thể trách cứ khi anh ta nghi ngờ. Anh bắt đầu phân vân về những suy luận của chính mình. Anh đã đi một đoạn đường dài đến Savannah để chứng mình hoặc phủ nhận việc Capra có đồng bọn. Vì vậy anh chưa có gì để chứng minh điều đó.
Anh chú ý màn hình và ấn nút Chạy.
Máy quay rời phòng bếp, đi dọc hành lang và dừng lại ở phòng tắm - những khăn tắm màu hồng, rèm che bồn tắm có hình những chú cá nhiều màu. Tay của Moore vã mồ hôi. Anh sợ phải xem những hình ảnh tiếp theo nhưng anh không thể rời mắt khỏi màn hình. Máy quay rời phòng tắm, tiếp tục đi đọc hành lang, qua những giỏ hoa mẫu đơn màu hồng treo trên tường. Sàn nhà bằng gỗ bị bẩn và dính đầy dấu chân của những nhân viên cảnh sát đầu tiên và các nhân viên y tế cuống cuồng đến hiện trường. Những gì còn lại là những vệt màu đỏ rối mắt. Cánh cửa sáng lờ mờ phía trước, cảnh phim rung mạnh vì người quay không vững tay.
Giờ máy quay đã đến phòng ngủ.
Moore cảm thấy dạ dày anh cuộn lên, không phải vì những gì anh đang nhìn khủng khiếp hơn những gì anh đã từng thấy ở hiện trưởng các vụ án. Không, nỗi sợ này là nỗi sợ bản năng sâu trong anh vì anh biết và rất yêu người phụ nữ bị hại ở đây. Anh đã xem kỹ những bức ảnh chụp căn phòng này nhưng chúng không có màu xanh rợn người như trên màn hình. Mặc dù Catherine không có trong hình - khi đó cô đã được đưa đến bệnh viện - nhưng bằng chứng về vụ tra tấn cô đang la hét trên màn hình. Anh thấy dây ni-lông đã được hắn dùng để buộc quanh cổ tay và cổ chân cô. Chúng vẫn bám vào chân giường. Anh thấy những dụng cụ phẫu thuật - một con dao mổ và một cái banh miệng vết mổ - trên bàn ở đầu giường. Anh thấy tất cả những điều đó. Chúng có tác động mạnh đến nỗi anh thực sự run rẩy trên ghế như thể vừa bị ai đó đấm mạnh.
Ống kính máy quay lia đi chỗ khác. Cuối cùng nó chĩa thẳng vào xác tên Capra nằm trên sàn nhà. Anh hầu như không có cảm xúc gì, anh đã bị tê liệt khi nhìn những hình ảnh mấy giây trước đó. Vết thương ở bụng Capra chảy nhiều máu. Máu tạo thành vũng lớn, đọng lại dưới thân hắn. Viên đạn thứ hai găm vào mắt hắn đã khiến hắn chết ngay lập tức. Anh nhớ khoảng trống năm phút giữa hai tiếng súng. Căn cứ vào vũng máu thì Capra đã nằm đó và bị chảy máu trong ít nhất là năm phút.
Đoạn băng đã hết.
Anh nhìn màn hình trống không, rồi cựa mình khỏi trạng thái bất động, tắt đầu băng hình. Anh cảm thấy kiệt sức đến nỗi không thể đứng lên được. Cuối cùng, anh cũng đứng lên và chỉ muốn rời khỏi nơi này. Anh ôm hộp giấy chứa những bản sao hồ sơ vụ điều tra ở Atlanta. Những giấy tờ này không phải là bản chính mà chỉ là bản sao của những hồ sơ ở Atlanta nên anh có thể xem chúng ở chỗ khác.
Trở lại khách sạn, anh tắm rửa, ăn thịt bò và khoai tây chiên được mang đến tận phòng. Anh cho phép mình xem ti vi một tiếng để bớt căng thẳng. Nhưng trong suốt lúc đó, anh chỉ ngồi cầm điều khiển, chuyển hết kênh này sang kênh khác. Anh chỉ muốn gọi điện cho Catherine. Khi xem cuộn băng cuối cùng quay cảnh hiện trường, nơi tên ác quỷ đã tấn công cô anh không thể ngồi yên.
Anh nhấc điện thoại lên hai lần, rồi lại đặt nó xuống. Nhưng anh lại nhấc máy lên, bấm số điện thoại mà anh đã thuộc. Chuông reo bốn lần và anh nghe thấy tiếng máy trả lời tự động của Catherine.
Anh gác máy, không để lại lời nhắn.
Anh nhìn điện thoại, xấu hổ vì ý chí của anh dễ bị đánh bại như thế nào. Anh đã tự hứa sẽ cứng rắn, giữ lời hứa với Marquette rằng anh sẽ giữ khoảng cách với Catherine trong suốt thời gian điều tra. Khi nào tất cả những chuyện này kết thúc, bàng cách nào đó, anh sẽ hàn gắn lại mọi chuyện giữa hai chúng ta.
Anh nhìn tập tài liệu của Atlanta đặt trên bàn. Bây giờ đã nửa đêm mà anh vẫn chưa bắt tay vào việc. Anh thở dài, mở hồ sơ đầu tiên trong hộp.
Vụ án của Dora Ciccastory, nạn nhân đầu tiên của Capra không làm anh có hứng đọc. Anh đã biết những chi tiết chung chung, chúng đã được tập hợp trong báo cáo của Singer. Nhưng Moore vẫn chưa đọc những báo cáo sơ bộ của Atlanta. Giờ anh đang đi ngược thời gian, nghiên cứu những hành động ban đầu của Andrew Capra. Atlanta chính là nơi vụ giết người hàng loạt bắt đầu.
Anh đọc báo cáo tội phạm đầu tiên, tiếp tục đọc ghi chép về những lần thẩm tra. Họ đã hỏi cung người phục vụ quầy rượu ở quán rượu địa phương, nơi lần cuối cùng người ta thấy cô ấy còn sống. Và cả bạn gái cô, người đã phát hiện ra thi thể cô. Ngoài ra còn có một tập hồ sơ có danh sách những kẻ tình nghi, ảnh của chúng; trong đó không có Capra.
Dora Ciccastory là sinh viên hai mươi hai tuổi, tốt nghiệp Đại học Emory. Vào đêm cô bị giết, người ta nhìn thấy cô lần cuối vào khoảng nửa đêm. Khi đó cô đang uống rượu Margaritta ở quán La Cantina. Bốn mươi tám giờ sau, thi thể cô đã được phát hiện trong nhà, trần truồng, bị trói vào giường bằng băng dính. Tử cung đã bị cắt rời và cổ bị cứa đứt.
Anh tìm thấy bản ghi chép thời gian của cảnh sát. Đó chỉ là bản ghi chép cẩu thả, gần như không đọc được. Như thể thám tử ở Atlanta đã liệt kê lụi mọi việc cho đủ những thông tin của hồ sơ ban đầu. Anh có thể nhận thấy sự thất bại của họ trên những trang giấy, có thể hình dung ra bàn tay rũ xuống vì thất vọng của viên thám tử. Chính anh đã trải qua cảm giác nặng nề đó khi hai mươi tư giờ, một tuần, rồi một tháng trôi qua mà anh vẫn chưa tìm được manh mối. Đây là tình huống thám tử ở Atlanta gặp phải - không có gì. Kẻ giết Dora Ciccastory vẫn còn là ẩn số.
Anh mở báo cáo khám nghiệm tử thi.
Việc cắt mổ Dora Ciccastory đã không nhanh chóng và nhuần nhuyễn như những lần giết người sau đó. Những vết mổ nham nhở cho thấy Capra đã không đủ tự tin để cắt một đường dứt khoát ngang phần bụng dưới. Thay vào đó, hắn ngập ngừng. Lưỡi dao của hắn thụt về phía sau, xọc mạnh qua da. Khi đã qua lớp da, quá trình sau đó biến thành một công đoạn rạch thịt không lành nghề. Con dao ấn ngập cả lưỡi và một phần cán dao khi hắn tìm sự vui thú. Trên người nạn nhân lần này không có chỉ y tế để buộc động mạch. Máu chảy nhiều. Capra chắc chắn đã làm việc như một người mù, việc giải phẫu của hắn để lại một vũng máu lớn.
Chỉ riêng việc cắt thành nhiều lớp đã được hắn thực hiện có kỹ năng. Nó được thực hiện bằng một vết cắt gọn, từ trái sang phải, như thể sự thèm khát của hắn lúc này đã được thỏa mãn, và cơn điên đã nguôi dần, cuối cùng hắn đã kiểm soát được bản thân và hoàn thành công việc của mình một cách hiệu quả, lạnh lùng.
Moore đặt báo cáo khám nghiệm tử thi sang bên, nhìn những phần còn lại trên bàn được đặt trên một cái khay bên cạnh anh. Bỗng anh thấy buồn nôn. Anh mang cái khay ra cửa, đặt nó bên ngoài hành lang. Rồi anh trở lại bàn, mở tập hồ sơ tiếp theo. Trong đó có những báo cáo của phòng thí nghiệm.
Tờ giấy đầu tiên là mẫu soi dưới kính hiển vi: mẫu t*ng trùng được xác định từ chất dịch lấy từ tử cung của nạn nhân.
Anh biết bản phân tích ADN của mẫu t*ng trùng này xác nhận đó là mẫu của Capra. Trước khi giết Dora Ciccastory, hắn đã cưỡng bức cô ấy.
Moore lật trang tiếp theo và thấy một đống giấy báo cáo của Phòng phân tích Tóc và Sợi. Vùng kín của nạn nhân và những sợi lông đã được kiểm tra. Trong số những sợi lông vùng kín màu nâu đỏ, có vài sợi khớp với mẫu tóc của Capra. Anh lật nhanh qua những trang báo cáo Tóc và Sợi. Họ đã kiểm tra nhiều sợi tóc vương vãi tại hiện trường. Phần lớn mẫu tóc là của chính nạn nhân, cả lông ở phần kín và tóc. Cũng có những sợi lông ngắn màu vàng rơi trên gối. Sau đó nó được xác định không phải là của người, căn cứ vào cấu trúc sống tóc. Một tờ phụ lục viết "Mẹ của nạn nhân có một con chó tha mồi lông vàng, giống với những sợi lông tìm thấy trong ghế sau xe của nạn nhân".
Anh lật trang báo cáo Tóc và Sợi cuối cùng và dừng lại. Có bản phân tích một sợi tóc khác, đây là tóc của người nhưng vẫn chưa được xác định. Nó được tìm thấy trên gối. Trong bất cứ ngôi nhà nào, người ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy những sợi tóc vương vãi. Tóc người rụng hàng chục sợi mỗi ngày, tùy thuộc vào việc bạn chăm chỉ làm việc nhà đến đâu, bạn có thường hút bụi trong nhà không. Chăn, gối, ghế đệm trong nhà bạn có lưu giữ dấu vết nhận dạng của những vị khách đã từng đến thăm nhà hạn. Sợi tóc duy nhất được tìm thấy trên gối này có thể là của tình nhân của nạn nhân, một vị khách, một người hàng xóm. Đó không phải là tóc của Andrew Capra.
Sợi tóc của người màu nâu sáng, AO (độ xoăn), độ dài gốc tóc: 5 cm. Đang ở giai đoạn thoái hóa. Chú ý có hiện tượng trichorrhexis invaginata. Chưa rõ nguồn gốc.
Trichorrhexis invaginata. Tóc tre.
Bác sỹ phẫu thuật đã ở đó.
Anh ngả mình về phía sau, kinh hoàng. Đầu buổi hôm nay anh đã đọc những bản báo cáo của phòng thí nghiệm trong vụ án của Lisa Fox, Voorhees, Torregrossa và Cordell. Tại hiện trường của cả bốn vụ án trên, cảnh sát đã không tìm được sợi tóc tre nào.
Nhưng đồng bọn của Capra đã ở đó trong suốt thời gian hắn gây án. Hắn vẫn vô hình, không để lại tinh dịch, mẫu ADN. Bằng chứng duy nhất về sự có mặt của hắn là sợi tóc này, và trí nhớ đã bị lãng quên của Catherine về giọng nói của hắn.
Tên đồng bọn đã nhúng tay ngay vào vụ đầu tiên ở Atlanta.
Khi quay lại phòng điều tra, anh thấy Singer đang đánh máy tính.
- Khoan đã - Singer nói. Anh ta nhấn vào mục Kiểm tra lỗi chính tả. Chúa sẽ tha lỗi cho bất cứ lỗi chính tả nào trong những bản báo cáo của anh ta. Anh ta hài lòng nhìn Moore - Có chuyện gì thế?
- Anh đã bao giờ tìm thấy sổ ghi địa chỉ và số điện thoại của Capra chưa?
- Sổ nào?
- Hầu như ai cũng có một cuốn sổ ghi địa chỉ và số điện thoại riêng để bên điện thoại. Tôi không thấy cuốn sổ trong căn phòng của hắn trong cuộn băng, và tôi cũng không tìm thấy nó trong danh sách những tài sản các vị đã thu làm tang vật.
- Anh đang bới lại chuyện hai năm trước. Nếu nó không có trong danh sách của chúng tôi thì bởi vì hắn không có cuốn sổ đó.
- Hoặc ai đó đã lấy nó đi trước khi các vị đến.
- Anh đang tìm gì? Tôi nghĩ anh đến đây để nghiên cứu về cách thức gây án của Capra, chứ không phải định phá lại vụ án đấy chứ?
- Tôi quan tâm đến những người bạn của Capra, những người biết rõ về hắn.
- Lạy Chúa! Chẳng ai hiểu hắn hết. chúng tôi đã hỏi cung các bác sỹ và y tá làm việc cùng hắn, bà chủ nhà và hàng xóm của hắn. Tôi đã lái xe đến Atlanta nói chuyện với cô hắn, người bà con duy nhất của hắn còn sống.
- Vâng, tôi đã đọc qua những lần hỏi cung.
- Vậy thì anh đã biết tất cả mọi người đều bị hắn gạt. Tôi nghe ai cũng nhận xét: Một bác sỹ tận tụy! Một người đàn ông thật lịch sự! - Singer khịt mũi.
- Họ không biết thực sự Capra là người thế nào.
Singer xoay ghế về phía máy tính.
- Khốn kiếp, không ai biết những con quỷ thực sự là những kẻ thế nào.
Đã đến lúc xem đoạn băng cuối cùng. Moore để dành cuộn băng này xem sau vì anh biết anh chưa sẵn sàng để xem những hình ảnh trong đó. Anh đã cố bình tĩnh xem những đoạn băng khác, đã ghi chú khi anh nghiên cứu kỹ phòng ngủ của Lisa Fox, Jennifer Torregrossa và Ruth Voorhees. Anh đã xem đi xem lại các vết máu bắn lên, những vết dây buộc hằn trên cổ tay các nạn nhân và ánh mắt vô hồn của họ. Anh có thể xem những đoạn băng đó và không có cảm xúc gì vì anh không biết những cô gái đó. Anh không nghe thấy tiếng nói của họ vang vọng trong đầu mình. Anh không tập trung vào các nạn nhân, mà là vào bạo lực của một gã đã để lại trong phòng ngủ của họ. Anh bỏ băng ghi hình hiện trường trong vụ án của Voorhees ra, đặt nó lên bàn. Anh phân vân cầm đoạn băng còn lại. Trên nhãn mác có ghi ngày, số hồ sơ vụ án và những dòng chữ: "Nơi ở của Catherine Cordell".
Anh nghĩ sẽ dừng việc xem băng lại đến sáng mai. Khi đó anh sẽ thấy sảng khoái. Anh đã ở trong phòng này cả ngày. Anh cầm cuộn băng, cân nhắc xem nên làm gì.
Một thoáng trước đó, anh thấy Singer đứng ở lối vào, nhìn anh.
- Trời! Anh vẫn ở đây - Singer ngạc nhiên.
- Tôi cần phải xem qua nhiều thứ.
- Anh đã xem hết các cuộn băng chưa?
- Trừ cuộn băng này.
Singer nhìn nhãn.
- Cordell.
- Đúng vậy.
- Tiếp tục đi, hãy bật lên! Tôi có thể bổ sung thêm vài chi tiết.
Moore cho cuộn băng vào đầu máy, ấn nút Chạy.
Họ đang nhìn mặt trước ngôi nhà của Catherine vào ban đêm. Hiên nhà được thắp sáng. Toàn bộ đèn bên trong đều được bật lên. Trên đoạn băng, anh nghe thấy người thu hình nói ngày và thời gian - hai giờ sáng - và tên của anh ta. Đó lại là Spiro Pataki. Dường như anh ta là người quay phim được mọi người yêu mến. Moore nghe thấy những âm thanh nền - những giọng nói, tiếng còi xe báo động lờ mờ. Pataki lại thực hiện thói quen là đi quanh ngôi nhà. Moore lờ mờ thấy một đám đông những người hàng xóm đứng nhìn ngoài dải ngăn ở cách hiện trường. Mặt họ sáng trưng vì ánh đèn của những chiếc xe tuần tra của cảnh sát đỗ bên đường. Điều này khiến anh ngạc nhiên vì anh biết khi đó đã quá nửa đêm. Chắc chắn việc đó rất ồn ào nên đã đánh thức nhiều hàng xóm.
Pataki trở lại ngôi nhà, tiến về phía cửa trước.
- Những phát súng - Singer nói - Đó là những bản báo cáo đầu tiên của chúng tôi. Người phụ nữ ở bên kia đường nghe thấy tiếng súng nổ, rồi sau đó rất lâu mới có tiếng súng thứ hai. Bà ấy đã gọi 911. Nhân viên đầu tiên đến hiện trường bảy phút sau đó. Hai phút sau xe cứu thương được gọi đến.
Moore nhớ người phụ nữ bên kia đường đã nhìn anh qua ô cửa.
- Tôi đã đọc lời khai của bà hàng xóm - Moore nói - Bà ấy nói đã không thấy bất cứ ai ra từ cửa trước của ngôi nhà.
- Đúng vậy. Bà ấy chỉ nghe thấy hai tiếng súng. Bà ấy ra khỏi giường ngay sau phát súng đầu tiên và nhìn ra cửa sổ. Rồi có lẽ là năm phút sau, bà ấy nghe thấy phát súng thứ hai.
Năm phút sau, Moore nghĩ. Trong suốt thời gian trống đó đã có chuyện gì?
Trên màn hình, máy quay đã tiến đến cửa trước và vừa mới vào nhà. Moore thấy một buồng nhỏ mở cửa, bên trong có treo vài chiếc áo khoác, một cái ô và một máy hút bụi. Giờ cảnh quay đã thay đổi, lướt qua phòng khách, Trên chiếc bàn thấp gần ghế dài có hai cốc nước, một trong hai cốc vẫn còn chất lỏng trông như bia.
- Cordell đã mời hắn vào trong - Singer nói - Họ đã uống vài cốc. Cô ấy vào phòng tắm, quay lại và uống hết chỗ bia. Trong vòng một giờ, thuốc Rohypnol đã có tác dụng.
Chiếc ghế dài có màu hồng đào, với những mẫu hoa văn nhỏ nhắn rất nữ tính. Moore không thấy Catherine là kiểu phụ nữ thích hoa nhưng thật sự cô thích chúng. Những bông hoa trên rèm cửa, trên những gối đệm đặt ở ghế dài. Và có rất nhiều màu sắc. Ở Savannah, cô đã sống với nhiều màu sắc. Anh hình dung cô ngồi đó uống nước với Andrew Capra, thông cảm lắng nghe những lo lắng của hắn về công việc trong khi thuốc Rohypnol từ từ đi vào máu qua thành dạ dày của cô. Những phân tử thuốc gây mê cuộn lên não cô và giọng nói của Capra bắt đầu nhỏ dần.
Giờ họ đi vào phòng bếp. Máy quay quét một lượt quanh nhà, ghi lại từng phòng khi họ đến vào lúc hai giờ sáng thứ bảy đó. Bồn rửa bát trong bếp chỉ có một cốc nước.
Moore đột nhiên cúi về phía trước.
- Cái cốc đó - các anh đã phân tích mẫu ADN từ nước bọt bám trên cốc chưa?
- Sao lại phải làm vậy?
- Các anh không biết là ai đã uống nước trong cái cốc đó phải không?
- Chỉ có hai người trong nhà khi cảnh sát đầu tiên đến hiện trường. Capra và Cordell.
- Có hai cốc trên bàn. Vậy ai đã uống nước trong cốc thứ ba?
- Khốn kiếp, có lẽ nó đã nằm trong bồn nước cả ngày. Nó không khớp với tình huống chúng tôi gặp ở hiện trường.
Người quay phim đã quay xong nhà bếp và đi tiếp ra hành lang.
Moore cầm chiếc điều khiển từ xa, ấn nút tua lại. Anh tua lại đoạn băng trước khi vào bếp.
- Gì vậy? - Singer hỏi.
Moore không trả lời. Anh cúi sát hơn, xem kỹ hình ảnh đang được tua lại trên màn hình. Chiếc tủ lạnh có dính những nam châm hình hoa quả. Những lọ đựng bột mì và đường nằm ở trên mặt bếp. Bồn nước có một chiếc cốc duy nhất. Rồi máy quay lướt nhanh qua gian bếp, hướng về phía hành lang.
Moore lại ấn nút Tua lại.
- Anh đang nhìn gì vậy? - Singer suốt ruột.
Đoạn băng trở về chỗ có chiếc cốc. Máy quay lại lia về phía hành lang. Moore ấn nút Dừng.
- Đây - anh nói - cửa bếp. Nó dẫn đến đâu?
- À... sân sau, mở ra một bãi cỏ.
- Và sau bãi cỏ đó là gì?
- Môt cái sân cạnh đó, môt dãy nhà khác.
- Anh có nói chuyện với chủ của sân sau đó không? Ông hay bà ấy có nghe thấy tiếng súng không?
- Việc đó thì có nghĩa gì?
Moore đứng lên, lại gần màn hình.
- Cửa bếp - anh nói và gõ lên màn hình - Có một dây khóa. Và dây khóa vẫn mở.
Singer dừng lại.
- Nhưng cánh cửa đó đã đóng lại. Anh thấy vị trí tay cầm chứ?
- Đúng vậy. Đó là loại tay cầm mà nhốt người ta ở bên ngoài.
- Ý anh là gì?
- Tại sao cô ấy ấn nút đó mà lại không khóa cửa lại? Những ai khóa cửa vào ban đêm đều làm hai việc đó cùng lúc. Họ ấn nút, rồi chốt cửa. Cô ấy đã bỏ qua bước thứ hai.
- Có thể cô ấy quên mất.
- Đã có ba cô gái khác bị giết ở Savannah. Cô ấy đã lo sợ đến mức giấu súng dưới giường. Tôi nghĩ cô ấy không quên - Anh nhìn Singer - Có thể ai đó đã ra bằng cửa bếp.
- Chỉ có hai người trong ngôi nhà đó. Cordell và Capra.
Moore cân nhắc những điều anh sắp nói. Dù được hay mất thì anh cũng sẽ nói thẳng.
Lúc này Singer đã biết cuộc nói chuyện sẽ đi đến đâu.
- Ý anh là Capra có đồng bọn.
- Đúng.
- Đó là một kết luận thật tuyệt vời chỉ do một dây khóa không cài.
Moore hít sâu.
- Còn nữa. Vào đêm Catherine Cordell bị tấn công, cô ấy đã nghe thấy một giọng nói khác trong nhà mình. Một người đàn ông đang nói chuyện với Capra.
- Cô ấy chưa bao giờ cho tôi biết điều đó.
- Cô ấy đã nói điều đó trong quá trình chúng tôi thẩm tra bằng thuật thôi miên.
Singer cười phá lên.
- Anh có nhà tâm lý nào để chứng minh điều đó không? Vì nếu có thì tôi sẽ tin lắm đấy.
- Nó giải thích tại sao tên Bác sỹ phẫu thuật lại biết tường tận những kỹ thuật của Capra. Hai tên đó là đồng bọn. Và Bác sỹ phẫu thuật đang thừa kế khi nạn nhân duy nhất của chúng sống sót.
- Thế giới này có khối phụ nữ. Sao hắn lại tập trung vào cô ấy?
- Một công việc dang dở.
- Đúng vậy, tôi đã hiểu giả thuyết đó hơn rồi - Singer rời ghế - Cordell đã quên không khóa cửa nhà bếp. Gã ở Boston đã bắt chước những gì hắn thấy trên báo. Và nhà thôi miên của các vị đã khơi lại những ký ức sai của cô ấy - Anh ta lắc đầu đi về phía cửa và nói với anh một câu châm biếm - Hãy báo cho tôi biết khi anh bắt được tên sát nhân thật sự.
Moore chỉ bận tâm một chút sau nhừng lời trao đổi đó. Anh biết Singer đang bảo vệ công cán của chính mình trong vụ án. Anh không thể trách cứ khi anh ta nghi ngờ. Anh bắt đầu phân vân về những suy luận của chính mình. Anh đã đi một đoạn đường dài đến Savannah để chứng mình hoặc phủ nhận việc Capra có đồng bọn. Vì vậy anh chưa có gì để chứng minh điều đó.
Anh chú ý màn hình và ấn nút Chạy.
Máy quay rời phòng bếp, đi dọc hành lang và dừng lại ở phòng tắm - những khăn tắm màu hồng, rèm che bồn tắm có hình những chú cá nhiều màu. Tay của Moore vã mồ hôi. Anh sợ phải xem những hình ảnh tiếp theo nhưng anh không thể rời mắt khỏi màn hình. Máy quay rời phòng tắm, tiếp tục đi đọc hành lang, qua những giỏ hoa mẫu đơn màu hồng treo trên tường. Sàn nhà bằng gỗ bị bẩn và dính đầy dấu chân của những nhân viên cảnh sát đầu tiên và các nhân viên y tế cuống cuồng đến hiện trường. Những gì còn lại là những vệt màu đỏ rối mắt. Cánh cửa sáng lờ mờ phía trước, cảnh phim rung mạnh vì người quay không vững tay.
Giờ máy quay đã đến phòng ngủ.
Moore cảm thấy dạ dày anh cuộn lên, không phải vì những gì anh đang nhìn khủng khiếp hơn những gì anh đã từng thấy ở hiện trưởng các vụ án. Không, nỗi sợ này là nỗi sợ bản năng sâu trong anh vì anh biết và rất yêu người phụ nữ bị hại ở đây. Anh đã xem kỹ những bức ảnh chụp căn phòng này nhưng chúng không có màu xanh rợn người như trên màn hình. Mặc dù Catherine không có trong hình - khi đó cô đã được đưa đến bệnh viện - nhưng bằng chứng về vụ tra tấn cô đang la hét trên màn hình. Anh thấy dây ni-lông đã được hắn dùng để buộc quanh cổ tay và cổ chân cô. Chúng vẫn bám vào chân giường. Anh thấy những dụng cụ phẫu thuật - một con dao mổ và một cái banh miệng vết mổ - trên bàn ở đầu giường. Anh thấy tất cả những điều đó. Chúng có tác động mạnh đến nỗi anh thực sự run rẩy trên ghế như thể vừa bị ai đó đấm mạnh.
Ống kính máy quay lia đi chỗ khác. Cuối cùng nó chĩa thẳng vào xác tên Capra nằm trên sàn nhà. Anh hầu như không có cảm xúc gì, anh đã bị tê liệt khi nhìn những hình ảnh mấy giây trước đó. Vết thương ở bụng Capra chảy nhiều máu. Máu tạo thành vũng lớn, đọng lại dưới thân hắn. Viên đạn thứ hai găm vào mắt hắn đã khiến hắn chết ngay lập tức. Anh nhớ khoảng trống năm phút giữa hai tiếng súng. Căn cứ vào vũng máu thì Capra đã nằm đó và bị chảy máu trong ít nhất là năm phút.
Đoạn băng đã hết.
Anh nhìn màn hình trống không, rồi cựa mình khỏi trạng thái bất động, tắt đầu băng hình. Anh cảm thấy kiệt sức đến nỗi không thể đứng lên được. Cuối cùng, anh cũng đứng lên và chỉ muốn rời khỏi nơi này. Anh ôm hộp giấy chứa những bản sao hồ sơ vụ điều tra ở Atlanta. Những giấy tờ này không phải là bản chính mà chỉ là bản sao của những hồ sơ ở Atlanta nên anh có thể xem chúng ở chỗ khác.
Trở lại khách sạn, anh tắm rửa, ăn thịt bò và khoai tây chiên được mang đến tận phòng. Anh cho phép mình xem ti vi một tiếng để bớt căng thẳng. Nhưng trong suốt lúc đó, anh chỉ ngồi cầm điều khiển, chuyển hết kênh này sang kênh khác. Anh chỉ muốn gọi điện cho Catherine. Khi xem cuộn băng cuối cùng quay cảnh hiện trường, nơi tên ác quỷ đã tấn công cô anh không thể ngồi yên.
Anh nhấc điện thoại lên hai lần, rồi lại đặt nó xuống. Nhưng anh lại nhấc máy lên, bấm số điện thoại mà anh đã thuộc. Chuông reo bốn lần và anh nghe thấy tiếng máy trả lời tự động của Catherine.
Anh gác máy, không để lại lời nhắn.
Anh nhìn điện thoại, xấu hổ vì ý chí của anh dễ bị đánh bại như thế nào. Anh đã tự hứa sẽ cứng rắn, giữ lời hứa với Marquette rằng anh sẽ giữ khoảng cách với Catherine trong suốt thời gian điều tra. Khi nào tất cả những chuyện này kết thúc, bàng cách nào đó, anh sẽ hàn gắn lại mọi chuyện giữa hai chúng ta.
Anh nhìn tập tài liệu của Atlanta đặt trên bàn. Bây giờ đã nửa đêm mà anh vẫn chưa bắt tay vào việc. Anh thở dài, mở hồ sơ đầu tiên trong hộp.
Vụ án của Dora Ciccastory, nạn nhân đầu tiên của Capra không làm anh có hứng đọc. Anh đã biết những chi tiết chung chung, chúng đã được tập hợp trong báo cáo của Singer. Nhưng Moore vẫn chưa đọc những báo cáo sơ bộ của Atlanta. Giờ anh đang đi ngược thời gian, nghiên cứu những hành động ban đầu của Andrew Capra. Atlanta chính là nơi vụ giết người hàng loạt bắt đầu.
Anh đọc báo cáo tội phạm đầu tiên, tiếp tục đọc ghi chép về những lần thẩm tra. Họ đã hỏi cung người phục vụ quầy rượu ở quán rượu địa phương, nơi lần cuối cùng người ta thấy cô ấy còn sống. Và cả bạn gái cô, người đã phát hiện ra thi thể cô. Ngoài ra còn có một tập hồ sơ có danh sách những kẻ tình nghi, ảnh của chúng; trong đó không có Capra.
Dora Ciccastory là sinh viên hai mươi hai tuổi, tốt nghiệp Đại học Emory. Vào đêm cô bị giết, người ta nhìn thấy cô lần cuối vào khoảng nửa đêm. Khi đó cô đang uống rượu Margaritta ở quán La Cantina. Bốn mươi tám giờ sau, thi thể cô đã được phát hiện trong nhà, trần truồng, bị trói vào giường bằng băng dính. Tử cung đã bị cắt rời và cổ bị cứa đứt.
Anh tìm thấy bản ghi chép thời gian của cảnh sát. Đó chỉ là bản ghi chép cẩu thả, gần như không đọc được. Như thể thám tử ở Atlanta đã liệt kê lụi mọi việc cho đủ những thông tin của hồ sơ ban đầu. Anh có thể nhận thấy sự thất bại của họ trên những trang giấy, có thể hình dung ra bàn tay rũ xuống vì thất vọng của viên thám tử. Chính anh đã trải qua cảm giác nặng nề đó khi hai mươi tư giờ, một tuần, rồi một tháng trôi qua mà anh vẫn chưa tìm được manh mối. Đây là tình huống thám tử ở Atlanta gặp phải - không có gì. Kẻ giết Dora Ciccastory vẫn còn là ẩn số.
Anh mở báo cáo khám nghiệm tử thi.
Việc cắt mổ Dora Ciccastory đã không nhanh chóng và nhuần nhuyễn như những lần giết người sau đó. Những vết mổ nham nhở cho thấy Capra đã không đủ tự tin để cắt một đường dứt khoát ngang phần bụng dưới. Thay vào đó, hắn ngập ngừng. Lưỡi dao của hắn thụt về phía sau, xọc mạnh qua da. Khi đã qua lớp da, quá trình sau đó biến thành một công đoạn rạch thịt không lành nghề. Con dao ấn ngập cả lưỡi và một phần cán dao khi hắn tìm sự vui thú. Trên người nạn nhân lần này không có chỉ y tế để buộc động mạch. Máu chảy nhiều. Capra chắc chắn đã làm việc như một người mù, việc giải phẫu của hắn để lại một vũng máu lớn.
Chỉ riêng việc cắt thành nhiều lớp đã được hắn thực hiện có kỹ năng. Nó được thực hiện bằng một vết cắt gọn, từ trái sang phải, như thể sự thèm khát của hắn lúc này đã được thỏa mãn, và cơn điên đã nguôi dần, cuối cùng hắn đã kiểm soát được bản thân và hoàn thành công việc của mình một cách hiệu quả, lạnh lùng.
Moore đặt báo cáo khám nghiệm tử thi sang bên, nhìn những phần còn lại trên bàn được đặt trên một cái khay bên cạnh anh. Bỗng anh thấy buồn nôn. Anh mang cái khay ra cửa, đặt nó bên ngoài hành lang. Rồi anh trở lại bàn, mở tập hồ sơ tiếp theo. Trong đó có những báo cáo của phòng thí nghiệm.
Tờ giấy đầu tiên là mẫu soi dưới kính hiển vi: mẫu t*ng trùng được xác định từ chất dịch lấy từ tử cung của nạn nhân.
Anh biết bản phân tích ADN của mẫu t*ng trùng này xác nhận đó là mẫu của Capra. Trước khi giết Dora Ciccastory, hắn đã cưỡng bức cô ấy.
Moore lật trang tiếp theo và thấy một đống giấy báo cáo của Phòng phân tích Tóc và Sợi. Vùng kín của nạn nhân và những sợi lông đã được kiểm tra. Trong số những sợi lông vùng kín màu nâu đỏ, có vài sợi khớp với mẫu tóc của Capra. Anh lật nhanh qua những trang báo cáo Tóc và Sợi. Họ đã kiểm tra nhiều sợi tóc vương vãi tại hiện trường. Phần lớn mẫu tóc là của chính nạn nhân, cả lông ở phần kín và tóc. Cũng có những sợi lông ngắn màu vàng rơi trên gối. Sau đó nó được xác định không phải là của người, căn cứ vào cấu trúc sống tóc. Một tờ phụ lục viết "Mẹ của nạn nhân có một con chó tha mồi lông vàng, giống với những sợi lông tìm thấy trong ghế sau xe của nạn nhân".
Anh lật trang báo cáo Tóc và Sợi cuối cùng và dừng lại. Có bản phân tích một sợi tóc khác, đây là tóc của người nhưng vẫn chưa được xác định. Nó được tìm thấy trên gối. Trong bất cứ ngôi nhà nào, người ta cũng có thể dễ dàng tìm thấy những sợi tóc vương vãi. Tóc người rụng hàng chục sợi mỗi ngày, tùy thuộc vào việc bạn chăm chỉ làm việc nhà đến đâu, bạn có thường hút bụi trong nhà không. Chăn, gối, ghế đệm trong nhà bạn có lưu giữ dấu vết nhận dạng của những vị khách đã từng đến thăm nhà hạn. Sợi tóc duy nhất được tìm thấy trên gối này có thể là của tình nhân của nạn nhân, một vị khách, một người hàng xóm. Đó không phải là tóc của Andrew Capra.
Sợi tóc của người màu nâu sáng, AO (độ xoăn), độ dài gốc tóc: 5 cm. Đang ở giai đoạn thoái hóa. Chú ý có hiện tượng trichorrhexis invaginata. Chưa rõ nguồn gốc.
Trichorrhexis invaginata. Tóc tre.
Bác sỹ phẫu thuật đã ở đó.
Anh ngả mình về phía sau, kinh hoàng. Đầu buổi hôm nay anh đã đọc những bản báo cáo của phòng thí nghiệm trong vụ án của Lisa Fox, Voorhees, Torregrossa và Cordell. Tại hiện trường của cả bốn vụ án trên, cảnh sát đã không tìm được sợi tóc tre nào.
Nhưng đồng bọn của Capra đã ở đó trong suốt thời gian hắn gây án. Hắn vẫn vô hình, không để lại tinh dịch, mẫu ADN. Bằng chứng duy nhất về sự có mặt của hắn là sợi tóc này, và trí nhớ đã bị lãng quên của Catherine về giọng nói của hắn.
Tên đồng bọn đã nhúng tay ngay vào vụ đầu tiên ở Atlanta.