Chương : 31
Nhiều ngày sau đó, chúng tôi không dám dừng lại ở bất cứ một thị trấn nào nữa, mà cho bè đi thẳng. Chúng tôi xuôi về phương Nam, nơi đó khí hậu ấm áp và cũng khá xa nhà. Cây cối um tùm, dây leo lủng lẳng trên những cành cây lớn, trông như từng bộ dây xám dài. Lần đầu tiên tôi thấy những cây đó, và hình như nó làm cho rừng cây càng thêm uy nghiêm buồn thảm. Đến đây, hai tên lừa đảo nghĩ rằng đã hết nguy hiểm nên lại vào các làng xóm để kiếm chác.
Thọat tiên, chúng trò chuyện về nạn nghiện rượu, nhưng chúng cũng chẳng kiếm đủ tiền để mua rượu cho chúng uống. Khi đến làng khác, chúng mở lớp dạy khiêu vũ, nhưng chúng cũng chỉ nhảy như một con kang gu ru, vì thế chúng bị công chúng cũng nhảy vào, đuổi đi ngay. Một lần khác, chúng lại định diễn thuyết, nhưng chưa nói được mấy câu thì cử tọa đã đứng dậy chửi cho một trận, rồi tống cổ đi. Chúng còn làm những trò giảng đạo, thôi miên, chữa bệnh, bói toán, mỗi thứ một tí, nhưng hình như những lần này đều rủi ro cả. Sau cùng, chúng chán quá, nằm ì trên bè suốt nửa ngày nói chẳng rằng, vẻ buồn rầu, thất vọng lắm.
Sau cùng, chúng chụm đầu vào nhau bàn bạc hai ba tiếng đồng hồ có vẻ bí mật lắm. Jim với tôi thấy lo, chắc là chúng lại đang tính toán với nhau một chuyện gì xấu xa nữa đây. Nghĩ mãi, chúng tôi đoán là chúng bàn tính với nhau vào một nhà nào hay cửa hiệu nào, hay sắp đi làm bạc giả. Thế là chúng tôi sợ quá, thỏa thuận với nhau là nhất định không dính dáng gì đến những hành động của chúng và nếu có điều kiện, chúng tôi cũng bỏ chạy luôn.
Một buổi sớm, chúng tôi giấu bè vào một chỗ an toàn, cách một cái làng tồi tàn tên là Pikesville tới hai dặm. Nhà vua lên bờ, dặn chúng tôi hãy nấp vào một nơi chờ lão lên phố dò la xem có ai đồn gì về chuyện diễn kịch Hoàng gia kim cổ chưa. Lão ta nói rằng nếu chờ đến trưa không thấy lão trở về tức là quận công với tôi sẽ lên theo.
Quận công có vẻ bồn chồn, gắt gỏng. Anh ta mắng chúng tôi từ những chuyện nhỏ trở đi. Chắc là có chuyện gì sắp xảy ra đây. Tôi rất mừng vì đến trưa rồi không thấy nhà vua về. Thế là tôi và quận công lên bờ đi vào làng, tìm nhà vua. Lát sau, chúng tôi thấy lão ở phía sau một chiếc tàu đánh cá, lão đang bị ấn vào một ngôi nhà chật hẹp, và bị một đám vô lại đang trêu chọc... Còn lão thì chửi váng lên và dọa nạt bọn người kia. Quận công đến nơi thấy thế lại bảo rằng đó là một lão già điên. Nhà vua mắng lại ông quận công. Thừa lúc hai người đang chửi nhau kịch liệt, tôi chuồn ra, chạy nhanh như bay xuống con đường ven sông. Tôi chạy đến chỗ giấu bè, mệt đứt hơi, nhưng trong lòng rất vui sướng. Tôi gọi:
- Jim ơi, thả bè thôi, mình thoát rồi.
Nhưng không có tiếng trả lời, và cũng không thấy ai ở trong lều bò ra. Jim đã đi mất rồi! Tôi gọi to một tiếng, rồi một tiếng nữa - lại một tiếng nữa; chạy hết ngả này ngả khác vào rừng, hú lên, hét lên, nhưng vô ích - JIm đã bị mất rồi. Tôi ngồi xuống khóc nức nở. Lúc sau, tôi trở lại đường cái, trong bụng nghĩ xem nên làm thế nào. Bỗng thấy một thằng bé ở đâu đi tới, tôi hỏi có thấy một người da đen ăn mặc như thế không. Nó đáp:
- Có
- Thế anh ta đâu rồi? Tôi hỏi:
- ở dưới nhà ông Silas Phelps, cách đây hai dặm. Nó là một tên da đen chạy trốn; họ bắt được. Anh đi tìm nó phải không?
- Không, tôi không tìm. Tôi gặp nó ở trong rừng cáchh đây hai tiếng đồng hồ. Nó bảo nếu tôi mà kêu lên thì nó mổ bụng moi gan rồi bắt tôi nằm xuống và nằm im ở đó. Tôi phải nằm. Từ lúc ấy, tôi cứ ở trong rừng, sợ quá không dám ra.
Thằng bé nói:
- Thôi bây giờ anh không phải sợ nữa, họ đã bắt được nó rồi. Hình như nó chạy về phương Nam thì phải.
- Cũng may mà nó đã bị bắt.
- Được thưởng hai trăm đô la đấy, ngon lành quá rồi còn gì.
- ừ nhỉ, nếu tôi mà lớn hơn một chút thì nó không thoát khỏi tôi đâu, vì chính tôi gặp nó trước. Thế ai bắt được nó?
- Một lão già, rồi lão ta lại bán cho một người khác lấy bốn chục đô la vì phải đi ngay cùng người bạn nên không chờ được. Thế có lạ không? Tôi thì tôi chờ, đến bảy năm cũng được.
- Tôi cũng thế. Nhưng có lẽ lão ta có chuyện gì không được rõ ràng lắm nên mới bán rẻ như vậy.
- ồ, chuyện này có gì mà không rõ ràng. Chính mắt tôi trông thấy giấy truy nã nó, vẽ cả hình nó, nói là nó ở đồn điền nào chạy đến, hình như là ở dưới New Orleans ấy mà. Này, anh có thuốc cho xin một điếu.
Tôi bảo không có. Thế là nó bỏ đi. Tôi trở ra bè, ngồi trong lều nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến nhức cả đầu mà cũng không tìm được cách nào thoát khỏi cái thuyền rắc rối này. Sau một chuyến đi dài đằng đẵng, sau bao nhiêu khó khăn khổ sở với mấy tên bịp bợm, bây giờ lại thành ra không đi đến đâu cả. Bọn chúng chỉ vì bốn mươi đô la mà đang tâm chơi cho Jim một vố như thế và bắt Jim trở lại làm nô lệ nữa thì thà hắn làm nô lệ ở gần nhà của hắn cũng còn nghìn lần tốt hơn là làm nô lệ ở chỗ xa lạ. Cho nên, tôi định viết thư cho thằng Tom Sawyer để báo nó nói cho cô Watson biết hiện giờ Jim đang ở đâu. Nhưng nghĩ kĩ, tôi lại bỏ ý nghĩ đó ngay. Vì hai lẽ: cô ấy chắc rất kinh tởm tên da đen vô ơn bạc nghĩa đã bỏ cô mà đi, và cô ta sẽ bán hắn đi ngay. Mà nếu như cô ta không làm thế thì cố nhiên Jim lúc nào cũng phải khổ tâm thấy mình xấu xa hèn hạ. Bây giờ làm thế nào? Rồi lại còn chuyện người ta đồn đi rằng Huck Finn đã giúp cho một người da đen chạy trốn. Nếu tôi gặp mặt người nào trong thị trấn thì tôi sẽ phải quỳ xuống mà hổ thẹn liếm giầy cho họ ư? Đời là như vậy đấy: ai đã làm một việc gì xấu xa thì không muốn nhận những cái hậu quả của việc đó. Tôi càng suy nghĩ càng thấy lương tâm cắn rứt, và lại càng cảm thấy mình xấu xa hèn hạ. Sau cùng, tôi có cảm giác như bàn tay của Thượng Đế vừa tát vào mặt tôi, bảo cho tôi biết rằng Thượng Đế vẫn theo dõi mọi việc làm tội lỗi của tôi. Chính tôi đã cướp mất người nô lệ da đen của một người đàn bà tội nghiệp chưa từng làm gì hại tôi. Tôi lại thấy tội lỗi của mình và sợ hãi quá lắm. Tôi cố gắng tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng mình vốn sinh ra đã xấu xa rồi thì cái đó cũng không đáng trách lắm. Nhưng trong người tôi lại vẫn có một cái gì như nói: Có cái trường nhà dòng ấy, mày phải đến đó học, nếu mày có đến đó học thì người ta sẽ dạy mày rằng những kẻ nào làm cái việc như mày đã làm đối với tên da đen đó thì sẽ bị thiêu chết.
Tôi rùng mình sợ hãi, và tôi tính phải cầu nguyện để trở thành người lương thiện. Tôi quỳ xuống. Nhưng chẳng nghĩ ra câu gì. Tại sao thế nhỉ? Có lẽ không thể dối trá được Thượng Đế cũng như bản thân. Tôi biết tại sao không tìm ra được những lời cầu nguyện, chỉ vì tôi không thẳng thắn, không thật lòng. Tôi định từ bỏ tội lỗi, nhưng lương tâm tôi vẫn chứa chất điều đó... Thượng Đế biết tất cả nên không cho ta cầu nguyện cho điều dối trá. Tôi đã hiểu được điều đó.
Tôi băn khoăn vô cùng. Lát sau, tôi nảy ra một ý nghĩ và tự bảo: sẽ viết thư để xem rồi sau đó cầu nguyện được chăng. Lạ quá, nghĩ đến đó thì cảm thấy mình nhẹ nhõm như một lông hồng. Bao nhiêu băn khoăn tiêu tán hết cả. Tôi cầm cái bút chì lấy một mảnh giấy, hăm hở ngồi xuống viết.
“Cô Watson, anh da đen Jim của cô chạy trốn xuống dưới này, cách Pikesville hai dặm. Ông Phelps bắt được hắn và sẽ đem trả cô để lấy thưởng nếu cô gửi tiền xuống.”
Huck Finn"
Tôi cảm thấy dễ chịu như vừa trút được mọi tội lỗi. Và tôi nghĩ bây giờ thì có thể cầu nguyện được. Nhưng tôi chưa cầu nguyện ngay, mà còn đặt mảnh giấy xuống dưới, ngồi nghĩ ngợi. Mọi việc đã diễn ra tốt đẹp ngay vào lúc tôi tuyệt vọng nhất. Tôi lại nghĩ đến cả chuyến đi cùng với Jim dọc con sông này. Jim luôn ở bên tôi, ngày cũng như đêm, dưới trăng cũng như trong giông tố. Chúng tôi nói chuyện, hát cười trên con bè trôi theo dòng nước. Tôi không thể tìm thấy một điều gì khiến tôi ghét Jim được mà ngược lại. Jim đứng gác thay cho tôi, đáng lẽ gọi tôi dậy thì hắn vẫn để tôi ngủ; Jim sung sướng, mừng rỡ khi thấy tôi thoát nạn trở về; và bao giờ Jim cũng gọi tôi bằng cái tên thân yêu, chiều chuông tôi, có thể vì tôi mà làm tất cả. Rồi tôi lại nhớ đến lúc tôi cứu Jim và bảo mấy người rằng ở trên bè có một người đang bị bệnh đậu mùa, và Jim bảo tôi là người bạn tốt nhất của Jim ở trên đời. Nghĩ thế, tôi nhìn xuống mảnh giấy vừa viết.
Thật là khó xử. Tôi nhặt mảnh giấy lên, mân mê trong tay. Người tôi run lẩy bẩy vì đây là lúc tôi phải quyết định làm theo một trong hai điều. Tôi nghĩ một phút, nín thở, rồi tự bảo:
- Thôi được, mình sẵn sàng đi xuống địa ngục.
Thế là tôi xé toang mảnh giấy.
Tôi xua đuổi hết mọi thứ trong đầu, và nói rằng mình sẽ lao theo con đường xấu xa vì tôi sinh ra đời đã như thế rồi, không thể nào khác được. Tôi phải ra tay cứu Jim thoát khỏi đời nô lệ. Nếu như tôi còn có thể nghĩ được gì xấu xa hơn nữa tôi cũng làm.
Tôi nghĩ đến kế hoạch hành động. Sau một hồi suy đi tính lại, tôi quyết định lựa chọn kế hoạch mà tôi thấy thích hợp. Tôi đẩy bè về hướng một hòn đảo có nhiều cây cối phía dưới sông, chờ đến lúc trời tối thì giấu bè vào một nơi rồi quay vào trong lều. Tôi ngủ ở đó suốt đêm, dậy từ lúc trời chưa sáng. Tôi ăn lót dạ, mặc bộ quần áo, bước xuống xuồng chèo vào bờ. Tôi đậu xuồng ở một chỗ mà tôi đoán rằng đó là nhà Phelps, giấu gói quần áo ở ven rừng rồi cho nước tràn vào ngập xuồng, bỏ đá vào đó và để đánh chìm xuồng để rồi sau lúc nào cần có thể tìm được. Rồi tôi bước lên đường. Đi qua trước xưởng thấy có cái biển đề: Xưởng của Phelps. Tôi đi đến mấy căn nhà cách đó vài trăm thước, dán mắt nhìn vào trong mà không thấy ai cả mặc dầu bây giờ trời đã sáng rõ lắm rồi. Nhưng không hề gì vì lúc này tôi chưa muốn gặp ai, chỉ muốn thăm dò xem chỗ này là đâu. Theo kế hoạch, tôi làm ra vẻ là người từ thị trấn đến chứ không phải từ phía dưới lên. Người đầu tiên tôi gặp lại hóa ra là quận công. Anh ta đang dán tờ quảng cáo vở kịch “Hoàng gia cổ kim có một”. Bọn chúng vẫn chẳng biết sợ là gì. Tôi chưa kịp tránh đi thì anh ta đã trông thấy. Anh ta có vẻ ngạc nhiên, gọi:
- Mày ở đây ra thế? Cái bè để đâu? Có giấu vào chỗ kín không?
Tôi đáp:
- Tôi cũng đang định hỏi quận công câu đó.
Anh ta có vẻ không vui, nói:
- Mày hỏi tao câu ấy có ý gì?
Tôi nói:
- Hôm qua, khi thấy nhà vua ở trong ngôi nhà đó, tôi nghĩ còn lâu ông ta mới tỉnh rượu nên tôi đi lang thang xuống phố để giết thì giờ. Lúc đó, có người đến cho tôi một hào bảo đưa xuồng cho ông ta qua sông rồi đi bắt con cừu lạc. Thế là tôi đi theo ông ta. Nhưng đến khi dẫn cừu ra xuồng. Con cừu khỏe quá, giật dây ra chạy mất và chúng tôi phải đuổi theo. Chạy khắp các hang cùng ngõ hẻm cho đến tối không thấy, tôi đành trở về bè. Về đến nơi thì cũng không thấy bè nữa. Tôi tự bảo chắc các ông gặp chuyện không hay nên bỏ đi rồi mang theo cả anh da đen của tôi nữa. Thế là tôi ngồi phệt xuống đó khóc. Suốt đêm tôi phải ngủ trong rừng. Khổ thân Jim!
- Hắn có bốn mươi đô. Lúc chúng mình bắt gặp hắn ở ngôi nhà rách nát đó chính là lúc lão ta đánh bạc và thua không còn đồng nào, chỉ còn ít tiền lẻ để mua rượu. Khi tao đưa hắn về đến nơi đã thấy mất cái bè rồi. Chúng tao cho rằng mày đã đánh cắp bè chuồn đi rồi.
- Nhưng còn anh da đen của tôi nữa cơ mà? Anh ta là người thân duy nhất của tôi.
- Chúng tao không nghĩ thế. Thực ra, chúng tao coi nó như tài sản của chúng tao rồi. Thế là lúc thấy bè mất rồi, chúng tao trở về tay trắng nên mới lại làm cái trò diễn kịch này. Tao chưa có gì vào bụng cả. Một hào ấy đâu, đưa đây.
Tôi còn nhiều tiền nên đưa luôn cho anh ta một hào nhưng bảo anh ta hãy mua một cái gì ăn cho tôi cùng ăn với, vì tất cả tiền chỉ có thể thôi mà từ hôm qua đến giờ tôi cũng chưa ăn gì cả. Anh ta không nói gì. Một phút sau, anh ta hỏi tôi:
- Mày có nghĩ rằng tên da đen đó sẽ tố cáo chúng tao không? Nó mà làm thế chúng tao sẽ lột da nó.
- Nó làm sao mà dám tố cáo các ngài? Nó chạy trốn rồi cơ mà?
- Lão già ấy đã bán nó rồi, nhưng chẳng chia cho tao một đồng nào. Số tiền ấy cũng hết sạch rồi.
Tôi òa lên khóc:
- Bán đi à? Nó là tên da đen của tôi. Nó là tiền của tôi. Trả tên da đen cho tôi đây.
- Mày không đòi lại được đâu, đừng có khóc nữa. Nghe đây này, mày có định chơi tố cáo chúng tao không? Tao không thể tin mày được.
Tôi thấy trong mắt anh ta có một vẻ dữ tợn. Tôi vẫn khóc và nói:
- Tôi không muốn tố cáo ai cả. Tôi phải đi tìm tên da đen của tôi đây.
Anh ta đứng đó, trong tay vấn còn cầm mất tờ quảng cáo, nhíu mày suy nghĩ. Anh ta bảo:
- Chúng tao còn ở đây ba ngày. Nếu mày hứa với tao là không tố cáo tao, và không để cho tên da đen tố cáo tao thì tao sẽ bảo cho mày biết chỗ tìm nó ở đâu.
Tôi hứa. Anh ta lại nói:
- Có một người chủ trại tên là Silas Ph...
Anh ta bỗng ngừng lại. Chắc là anh ta đã định nói thật, anh ta lại thay đổi ý định. Anh ta vẫn chưa tin tôi, muốn tôi đi khỏi nơi này trong ba ngày. Anh ta nói tiếp:
- Cái người mua thằng Jim là Abram Foster, ở cách đây bốn mươi dặm, ở vùng quê, trên đường đi Lafayette
Tôi nói:
- Được, tôi đi đến đó ngay chiều nay, chỉ ba ngày sẽ đến nơi.
- Không, mày nên đi ngay bây giờ. Trên đường đừng có la cà, trò chuyện với ai, nếu không sẽ gặp chuyện rắc rối đấy.
Tôi cũng chỉ mong có thế, trong đầu tôi có kế hoạch rồi. Anh ta nói:
- Thôi đi ngay đi. Khi nào gặp ông Abram Foster, mày muốn nói gì cũng được. Có lẽ mày có thể nói để ông ta tin rằng Jim là tên da đen của mày, chắc rằng hắn cũng chẳng hỏi giấy tờ gì đâu. Thôi đi đi, gặp ông ta muốn nói gì thì nói, nhưng mày phải nhớ rằng từ đây đến đó không được mở miệng nói gì cả.
Tôi đi phía ngoại thành. Tuy không ngóai cổ lại nhưng tôi vẫn cảm thấy anh ta đang theo dõi mình. Tôi đi thẳng ra ngoại thành cách đó chừng một dặm rồi dừng lại, quặt vào rừng và quay về chỗ nhà ông Phelps. Tôi dự định phải thực hiện kế hoạch của mình ngay không để Jim kịp tố cáo bọn chúng lại thêm phần rắc rối. Chỉ mong sao thoát khỏi bọn chúng là mừng rồi.
Thọat tiên, chúng trò chuyện về nạn nghiện rượu, nhưng chúng cũng chẳng kiếm đủ tiền để mua rượu cho chúng uống. Khi đến làng khác, chúng mở lớp dạy khiêu vũ, nhưng chúng cũng chỉ nhảy như một con kang gu ru, vì thế chúng bị công chúng cũng nhảy vào, đuổi đi ngay. Một lần khác, chúng lại định diễn thuyết, nhưng chưa nói được mấy câu thì cử tọa đã đứng dậy chửi cho một trận, rồi tống cổ đi. Chúng còn làm những trò giảng đạo, thôi miên, chữa bệnh, bói toán, mỗi thứ một tí, nhưng hình như những lần này đều rủi ro cả. Sau cùng, chúng chán quá, nằm ì trên bè suốt nửa ngày nói chẳng rằng, vẻ buồn rầu, thất vọng lắm.
Sau cùng, chúng chụm đầu vào nhau bàn bạc hai ba tiếng đồng hồ có vẻ bí mật lắm. Jim với tôi thấy lo, chắc là chúng lại đang tính toán với nhau một chuyện gì xấu xa nữa đây. Nghĩ mãi, chúng tôi đoán là chúng bàn tính với nhau vào một nhà nào hay cửa hiệu nào, hay sắp đi làm bạc giả. Thế là chúng tôi sợ quá, thỏa thuận với nhau là nhất định không dính dáng gì đến những hành động của chúng và nếu có điều kiện, chúng tôi cũng bỏ chạy luôn.
Một buổi sớm, chúng tôi giấu bè vào một chỗ an toàn, cách một cái làng tồi tàn tên là Pikesville tới hai dặm. Nhà vua lên bờ, dặn chúng tôi hãy nấp vào một nơi chờ lão lên phố dò la xem có ai đồn gì về chuyện diễn kịch Hoàng gia kim cổ chưa. Lão ta nói rằng nếu chờ đến trưa không thấy lão trở về tức là quận công với tôi sẽ lên theo.
Quận công có vẻ bồn chồn, gắt gỏng. Anh ta mắng chúng tôi từ những chuyện nhỏ trở đi. Chắc là có chuyện gì sắp xảy ra đây. Tôi rất mừng vì đến trưa rồi không thấy nhà vua về. Thế là tôi và quận công lên bờ đi vào làng, tìm nhà vua. Lát sau, chúng tôi thấy lão ở phía sau một chiếc tàu đánh cá, lão đang bị ấn vào một ngôi nhà chật hẹp, và bị một đám vô lại đang trêu chọc... Còn lão thì chửi váng lên và dọa nạt bọn người kia. Quận công đến nơi thấy thế lại bảo rằng đó là một lão già điên. Nhà vua mắng lại ông quận công. Thừa lúc hai người đang chửi nhau kịch liệt, tôi chuồn ra, chạy nhanh như bay xuống con đường ven sông. Tôi chạy đến chỗ giấu bè, mệt đứt hơi, nhưng trong lòng rất vui sướng. Tôi gọi:
- Jim ơi, thả bè thôi, mình thoát rồi.
Nhưng không có tiếng trả lời, và cũng không thấy ai ở trong lều bò ra. Jim đã đi mất rồi! Tôi gọi to một tiếng, rồi một tiếng nữa - lại một tiếng nữa; chạy hết ngả này ngả khác vào rừng, hú lên, hét lên, nhưng vô ích - JIm đã bị mất rồi. Tôi ngồi xuống khóc nức nở. Lúc sau, tôi trở lại đường cái, trong bụng nghĩ xem nên làm thế nào. Bỗng thấy một thằng bé ở đâu đi tới, tôi hỏi có thấy một người da đen ăn mặc như thế không. Nó đáp:
- Có
- Thế anh ta đâu rồi? Tôi hỏi:
- ở dưới nhà ông Silas Phelps, cách đây hai dặm. Nó là một tên da đen chạy trốn; họ bắt được. Anh đi tìm nó phải không?
- Không, tôi không tìm. Tôi gặp nó ở trong rừng cáchh đây hai tiếng đồng hồ. Nó bảo nếu tôi mà kêu lên thì nó mổ bụng moi gan rồi bắt tôi nằm xuống và nằm im ở đó. Tôi phải nằm. Từ lúc ấy, tôi cứ ở trong rừng, sợ quá không dám ra.
Thằng bé nói:
- Thôi bây giờ anh không phải sợ nữa, họ đã bắt được nó rồi. Hình như nó chạy về phương Nam thì phải.
- Cũng may mà nó đã bị bắt.
- Được thưởng hai trăm đô la đấy, ngon lành quá rồi còn gì.
- ừ nhỉ, nếu tôi mà lớn hơn một chút thì nó không thoát khỏi tôi đâu, vì chính tôi gặp nó trước. Thế ai bắt được nó?
- Một lão già, rồi lão ta lại bán cho một người khác lấy bốn chục đô la vì phải đi ngay cùng người bạn nên không chờ được. Thế có lạ không? Tôi thì tôi chờ, đến bảy năm cũng được.
- Tôi cũng thế. Nhưng có lẽ lão ta có chuyện gì không được rõ ràng lắm nên mới bán rẻ như vậy.
- ồ, chuyện này có gì mà không rõ ràng. Chính mắt tôi trông thấy giấy truy nã nó, vẽ cả hình nó, nói là nó ở đồn điền nào chạy đến, hình như là ở dưới New Orleans ấy mà. Này, anh có thuốc cho xin một điếu.
Tôi bảo không có. Thế là nó bỏ đi. Tôi trở ra bè, ngồi trong lều nghĩ ngợi. Tôi nghĩ đến nhức cả đầu mà cũng không tìm được cách nào thoát khỏi cái thuyền rắc rối này. Sau một chuyến đi dài đằng đẵng, sau bao nhiêu khó khăn khổ sở với mấy tên bịp bợm, bây giờ lại thành ra không đi đến đâu cả. Bọn chúng chỉ vì bốn mươi đô la mà đang tâm chơi cho Jim một vố như thế và bắt Jim trở lại làm nô lệ nữa thì thà hắn làm nô lệ ở gần nhà của hắn cũng còn nghìn lần tốt hơn là làm nô lệ ở chỗ xa lạ. Cho nên, tôi định viết thư cho thằng Tom Sawyer để báo nó nói cho cô Watson biết hiện giờ Jim đang ở đâu. Nhưng nghĩ kĩ, tôi lại bỏ ý nghĩ đó ngay. Vì hai lẽ: cô ấy chắc rất kinh tởm tên da đen vô ơn bạc nghĩa đã bỏ cô mà đi, và cô ta sẽ bán hắn đi ngay. Mà nếu như cô ta không làm thế thì cố nhiên Jim lúc nào cũng phải khổ tâm thấy mình xấu xa hèn hạ. Bây giờ làm thế nào? Rồi lại còn chuyện người ta đồn đi rằng Huck Finn đã giúp cho một người da đen chạy trốn. Nếu tôi gặp mặt người nào trong thị trấn thì tôi sẽ phải quỳ xuống mà hổ thẹn liếm giầy cho họ ư? Đời là như vậy đấy: ai đã làm một việc gì xấu xa thì không muốn nhận những cái hậu quả của việc đó. Tôi càng suy nghĩ càng thấy lương tâm cắn rứt, và lại càng cảm thấy mình xấu xa hèn hạ. Sau cùng, tôi có cảm giác như bàn tay của Thượng Đế vừa tát vào mặt tôi, bảo cho tôi biết rằng Thượng Đế vẫn theo dõi mọi việc làm tội lỗi của tôi. Chính tôi đã cướp mất người nô lệ da đen của một người đàn bà tội nghiệp chưa từng làm gì hại tôi. Tôi lại thấy tội lỗi của mình và sợ hãi quá lắm. Tôi cố gắng tự an ủi mình bằng cách nghĩ rằng mình vốn sinh ra đã xấu xa rồi thì cái đó cũng không đáng trách lắm. Nhưng trong người tôi lại vẫn có một cái gì như nói: Có cái trường nhà dòng ấy, mày phải đến đó học, nếu mày có đến đó học thì người ta sẽ dạy mày rằng những kẻ nào làm cái việc như mày đã làm đối với tên da đen đó thì sẽ bị thiêu chết.
Tôi rùng mình sợ hãi, và tôi tính phải cầu nguyện để trở thành người lương thiện. Tôi quỳ xuống. Nhưng chẳng nghĩ ra câu gì. Tại sao thế nhỉ? Có lẽ không thể dối trá được Thượng Đế cũng như bản thân. Tôi biết tại sao không tìm ra được những lời cầu nguyện, chỉ vì tôi không thẳng thắn, không thật lòng. Tôi định từ bỏ tội lỗi, nhưng lương tâm tôi vẫn chứa chất điều đó... Thượng Đế biết tất cả nên không cho ta cầu nguyện cho điều dối trá. Tôi đã hiểu được điều đó.
Tôi băn khoăn vô cùng. Lát sau, tôi nảy ra một ý nghĩ và tự bảo: sẽ viết thư để xem rồi sau đó cầu nguyện được chăng. Lạ quá, nghĩ đến đó thì cảm thấy mình nhẹ nhõm như một lông hồng. Bao nhiêu băn khoăn tiêu tán hết cả. Tôi cầm cái bút chì lấy một mảnh giấy, hăm hở ngồi xuống viết.
“Cô Watson, anh da đen Jim của cô chạy trốn xuống dưới này, cách Pikesville hai dặm. Ông Phelps bắt được hắn và sẽ đem trả cô để lấy thưởng nếu cô gửi tiền xuống.”
Huck Finn"
Tôi cảm thấy dễ chịu như vừa trút được mọi tội lỗi. Và tôi nghĩ bây giờ thì có thể cầu nguyện được. Nhưng tôi chưa cầu nguyện ngay, mà còn đặt mảnh giấy xuống dưới, ngồi nghĩ ngợi. Mọi việc đã diễn ra tốt đẹp ngay vào lúc tôi tuyệt vọng nhất. Tôi lại nghĩ đến cả chuyến đi cùng với Jim dọc con sông này. Jim luôn ở bên tôi, ngày cũng như đêm, dưới trăng cũng như trong giông tố. Chúng tôi nói chuyện, hát cười trên con bè trôi theo dòng nước. Tôi không thể tìm thấy một điều gì khiến tôi ghét Jim được mà ngược lại. Jim đứng gác thay cho tôi, đáng lẽ gọi tôi dậy thì hắn vẫn để tôi ngủ; Jim sung sướng, mừng rỡ khi thấy tôi thoát nạn trở về; và bao giờ Jim cũng gọi tôi bằng cái tên thân yêu, chiều chuông tôi, có thể vì tôi mà làm tất cả. Rồi tôi lại nhớ đến lúc tôi cứu Jim và bảo mấy người rằng ở trên bè có một người đang bị bệnh đậu mùa, và Jim bảo tôi là người bạn tốt nhất của Jim ở trên đời. Nghĩ thế, tôi nhìn xuống mảnh giấy vừa viết.
Thật là khó xử. Tôi nhặt mảnh giấy lên, mân mê trong tay. Người tôi run lẩy bẩy vì đây là lúc tôi phải quyết định làm theo một trong hai điều. Tôi nghĩ một phút, nín thở, rồi tự bảo:
- Thôi được, mình sẵn sàng đi xuống địa ngục.
Thế là tôi xé toang mảnh giấy.
Tôi xua đuổi hết mọi thứ trong đầu, và nói rằng mình sẽ lao theo con đường xấu xa vì tôi sinh ra đời đã như thế rồi, không thể nào khác được. Tôi phải ra tay cứu Jim thoát khỏi đời nô lệ. Nếu như tôi còn có thể nghĩ được gì xấu xa hơn nữa tôi cũng làm.
Tôi nghĩ đến kế hoạch hành động. Sau một hồi suy đi tính lại, tôi quyết định lựa chọn kế hoạch mà tôi thấy thích hợp. Tôi đẩy bè về hướng một hòn đảo có nhiều cây cối phía dưới sông, chờ đến lúc trời tối thì giấu bè vào một nơi rồi quay vào trong lều. Tôi ngủ ở đó suốt đêm, dậy từ lúc trời chưa sáng. Tôi ăn lót dạ, mặc bộ quần áo, bước xuống xuồng chèo vào bờ. Tôi đậu xuồng ở một chỗ mà tôi đoán rằng đó là nhà Phelps, giấu gói quần áo ở ven rừng rồi cho nước tràn vào ngập xuồng, bỏ đá vào đó và để đánh chìm xuồng để rồi sau lúc nào cần có thể tìm được. Rồi tôi bước lên đường. Đi qua trước xưởng thấy có cái biển đề: Xưởng của Phelps. Tôi đi đến mấy căn nhà cách đó vài trăm thước, dán mắt nhìn vào trong mà không thấy ai cả mặc dầu bây giờ trời đã sáng rõ lắm rồi. Nhưng không hề gì vì lúc này tôi chưa muốn gặp ai, chỉ muốn thăm dò xem chỗ này là đâu. Theo kế hoạch, tôi làm ra vẻ là người từ thị trấn đến chứ không phải từ phía dưới lên. Người đầu tiên tôi gặp lại hóa ra là quận công. Anh ta đang dán tờ quảng cáo vở kịch “Hoàng gia cổ kim có một”. Bọn chúng vẫn chẳng biết sợ là gì. Tôi chưa kịp tránh đi thì anh ta đã trông thấy. Anh ta có vẻ ngạc nhiên, gọi:
- Mày ở đây ra thế? Cái bè để đâu? Có giấu vào chỗ kín không?
Tôi đáp:
- Tôi cũng đang định hỏi quận công câu đó.
Anh ta có vẻ không vui, nói:
- Mày hỏi tao câu ấy có ý gì?
Tôi nói:
- Hôm qua, khi thấy nhà vua ở trong ngôi nhà đó, tôi nghĩ còn lâu ông ta mới tỉnh rượu nên tôi đi lang thang xuống phố để giết thì giờ. Lúc đó, có người đến cho tôi một hào bảo đưa xuồng cho ông ta qua sông rồi đi bắt con cừu lạc. Thế là tôi đi theo ông ta. Nhưng đến khi dẫn cừu ra xuồng. Con cừu khỏe quá, giật dây ra chạy mất và chúng tôi phải đuổi theo. Chạy khắp các hang cùng ngõ hẻm cho đến tối không thấy, tôi đành trở về bè. Về đến nơi thì cũng không thấy bè nữa. Tôi tự bảo chắc các ông gặp chuyện không hay nên bỏ đi rồi mang theo cả anh da đen của tôi nữa. Thế là tôi ngồi phệt xuống đó khóc. Suốt đêm tôi phải ngủ trong rừng. Khổ thân Jim!
- Hắn có bốn mươi đô. Lúc chúng mình bắt gặp hắn ở ngôi nhà rách nát đó chính là lúc lão ta đánh bạc và thua không còn đồng nào, chỉ còn ít tiền lẻ để mua rượu. Khi tao đưa hắn về đến nơi đã thấy mất cái bè rồi. Chúng tao cho rằng mày đã đánh cắp bè chuồn đi rồi.
- Nhưng còn anh da đen của tôi nữa cơ mà? Anh ta là người thân duy nhất của tôi.
- Chúng tao không nghĩ thế. Thực ra, chúng tao coi nó như tài sản của chúng tao rồi. Thế là lúc thấy bè mất rồi, chúng tao trở về tay trắng nên mới lại làm cái trò diễn kịch này. Tao chưa có gì vào bụng cả. Một hào ấy đâu, đưa đây.
Tôi còn nhiều tiền nên đưa luôn cho anh ta một hào nhưng bảo anh ta hãy mua một cái gì ăn cho tôi cùng ăn với, vì tất cả tiền chỉ có thể thôi mà từ hôm qua đến giờ tôi cũng chưa ăn gì cả. Anh ta không nói gì. Một phút sau, anh ta hỏi tôi:
- Mày có nghĩ rằng tên da đen đó sẽ tố cáo chúng tao không? Nó mà làm thế chúng tao sẽ lột da nó.
- Nó làm sao mà dám tố cáo các ngài? Nó chạy trốn rồi cơ mà?
- Lão già ấy đã bán nó rồi, nhưng chẳng chia cho tao một đồng nào. Số tiền ấy cũng hết sạch rồi.
Tôi òa lên khóc:
- Bán đi à? Nó là tên da đen của tôi. Nó là tiền của tôi. Trả tên da đen cho tôi đây.
- Mày không đòi lại được đâu, đừng có khóc nữa. Nghe đây này, mày có định chơi tố cáo chúng tao không? Tao không thể tin mày được.
Tôi thấy trong mắt anh ta có một vẻ dữ tợn. Tôi vẫn khóc và nói:
- Tôi không muốn tố cáo ai cả. Tôi phải đi tìm tên da đen của tôi đây.
Anh ta đứng đó, trong tay vấn còn cầm mất tờ quảng cáo, nhíu mày suy nghĩ. Anh ta bảo:
- Chúng tao còn ở đây ba ngày. Nếu mày hứa với tao là không tố cáo tao, và không để cho tên da đen tố cáo tao thì tao sẽ bảo cho mày biết chỗ tìm nó ở đâu.
Tôi hứa. Anh ta lại nói:
- Có một người chủ trại tên là Silas Ph...
Anh ta bỗng ngừng lại. Chắc là anh ta đã định nói thật, anh ta lại thay đổi ý định. Anh ta vẫn chưa tin tôi, muốn tôi đi khỏi nơi này trong ba ngày. Anh ta nói tiếp:
- Cái người mua thằng Jim là Abram Foster, ở cách đây bốn mươi dặm, ở vùng quê, trên đường đi Lafayette
Tôi nói:
- Được, tôi đi đến đó ngay chiều nay, chỉ ba ngày sẽ đến nơi.
- Không, mày nên đi ngay bây giờ. Trên đường đừng có la cà, trò chuyện với ai, nếu không sẽ gặp chuyện rắc rối đấy.
Tôi cũng chỉ mong có thế, trong đầu tôi có kế hoạch rồi. Anh ta nói:
- Thôi đi ngay đi. Khi nào gặp ông Abram Foster, mày muốn nói gì cũng được. Có lẽ mày có thể nói để ông ta tin rằng Jim là tên da đen của mày, chắc rằng hắn cũng chẳng hỏi giấy tờ gì đâu. Thôi đi đi, gặp ông ta muốn nói gì thì nói, nhưng mày phải nhớ rằng từ đây đến đó không được mở miệng nói gì cả.
Tôi đi phía ngoại thành. Tuy không ngóai cổ lại nhưng tôi vẫn cảm thấy anh ta đang theo dõi mình. Tôi đi thẳng ra ngoại thành cách đó chừng một dặm rồi dừng lại, quặt vào rừng và quay về chỗ nhà ông Phelps. Tôi dự định phải thực hiện kế hoạch của mình ngay không để Jim kịp tố cáo bọn chúng lại thêm phần rắc rối. Chỉ mong sao thoát khỏi bọn chúng là mừng rồi.