Chương : 20
Hơn bất cứ ngày nào khác, vào ngày Chúa nhật ở trên núi, Hazel giống như một chiếc thuyền nhỏ bơ vơ đậu trên bờ cát vắng. Sự im lặng như ru ngủ bao trùm nơi này, hoàn toàn không có tiếng lau dọn của Martha, không có mùi của bếp núc. Vào ngày Chúa nhật, ngày gắn liền với phước lành bí ẩn của lễ Sabbath, luôn có thịt nguội và dưa cải muối. Sự sôi nổi khẽ khàng lan tỏa trong giờ hành lễ, để rồi sau đó lại tắt lịm như một cơn gió trên những ngọn cây.
Ở nhà thờ Hazel cảm thấy rất tự hào về Edward, và ít nhiều e sợ trước tác phong và vẻ lơ đễnh của chàng. Vào những ngày Chúa nhật tràn ngập hương thơm của hoa tử đinh hương, khi mà chàng đọc những mẩu truyện tình yêu thoang thoảng mùi hương xa xưa mà chàng từng sùng kính, nàng đã gần như phải lòng chàng. Giọng chàng thật dịu dàng và sâu sắc .
“Và chàng cưới vợ, rồi nàng sinh cho chàng một đứa con trai.”
Có thể chính chất giọng dịu dàng và sâu sắc của Edward đã nói những lời này với nàng một cách hùng hồn, hoặc cũng có thể Reddin đã phá hủy nét vô tư trẻ con của nàng, nhưng dù gì nàng cũng đã bắt đầu đem những truyện cổ tích đó gắn vào cuộc sống của riêng mình. Nàng ghen tị với những người đàn bà quyến rũ trong thế giới xa xưa. Họ thật cao ráo, phục sức thật lộng lẫy, sống dưới những cái cây đầy quả vàng và bầu trời lúc nào cũng ngời lên một màu xanh thăm thẳm, không có bà già nào hết.
Câu chuyện của họ diễn ra thật êm ả theo những mạch thẳng thớm, không giống như những sợi len rối rắm của nàng. Nàng bắt đầu ao ước được trở thàng một trong những nhân vật mắt đen, trong sáng và bất biến như ngà voi bóng loáng, di chuyển chầm chậm và lướt đi thật điềm tĩnh vào lúc rạng đông, đội trên đầu những bình đựng nước đẹp đẽ dành cho một thế giới đang khô khát với vẻ uyển chuyển nhàn nhã.
Edward đã cho nàng xem một bức tranh như thế trong cuốn Kinh Thánh có tranh minh họa của mẹ chàng. Theo bản năng nàng giật mình trước mối liên hệ duy nhất giữa nàng và những nhân vật đó.
“Ed’ard đã cưới mình làm vợ,” nàng nghĩ. Cảm giác ngọt ngào nhất của những ý nghĩ mới mẻ mơ hồ khuấy động tâm trí nàng như những búp lá phát triển bên trong vỏ của cái cây mùa xuân. Chúng mang đến cho khuôn mặt nàng một nét biểu lộ mới.
Ánh mắt của Edward tiếp tục lạc trong vùng ánh sáng mặt trời vẩn bụi nơi nàng ngồi, nơi khuôn mặt của nàng cúi xuống đầy bí ẩn và tràn đầy sức sống khi nó được ngắm ở một góc độ mới. Vẻ nghiêm trang của nàng trong nhà thờ trái ngược hẳn với vẻ hoang dã ngây thơ phảng phất quanh bờ môi nàng.
Edward cố gắng tập trung vào những lời cầu nguyện, chàng ước gì mình là một người theo Tân giáo, có những lời cầu nguyện được soạn sẵn để chàng chỉ việc đọc. Một lần chàng nói điều đó với mẹ chàng và bà đã rất sửng sốt. Bà nói rằng những lời cầu nguyện mà họ tự nghĩ ra, giống như bánh mì và mứt nhà làm, bao giờ cũng tốt nhất.
“Chẳng hạn như mứt được làm ở nhà máy, cái thứ ấy nhếch nhác lắm, và chẳng có gì đáng nói. Và những lời cầu nguyện hay nhất được in sẵn trong sách không hơn gì loại bột bốn xu một cân.”
Edward nói vấp, như ông James sau này nói, “giống con ngựa cái Betsy của tôi, đi một bước lại vấp một bước, gật đầu một cái rồi lại lạch bạch đi tiếp.”
Trong nhà thờ vẫn nóng, mặc dù ở bên ngoài không khí mát mẻ của buổi tối đã bao trùm và những chú chim đã xuất hiện sau cơn hôn mê kéo dài cả ngày. Mấy con bồ câu rừng cất lên giọng vang sâu từ những trảng thông mờ tối, phát ra một thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Bầy chim cúc cu ầm ĩ trong đám thông rụng lá bị gió xé, những cây thông đầy sức thanh xuân, ở phía sau nhà thờ. Một con chim két đang say sưa trong khúc cuồng tưởng của mình, rất nhàn nhã nhưng không biết mệt mỏi, về những chủ đề còn sâu hơn cả nước hồ Coppice ở phía xa xa, sâu như bí mật của quả trứng lốm đốm bị mổ vỡ trong tổ của nó trên bụi gai kia. Đâu đó trong những bụi đậu chồi màu vàng bầy chim chiền chiện đang nô đùa, thực hiện những chuyến bay ngắn, và hát những bài ca êm dịu, Đàn ong rừng màu cam rực rỡ và đàn ong nghệ bay lướt qua những ô cửa sổ mờ. Đám gà mái lông đen, lông trắng và đám gà trống choai của bà Marston mổ lộc cộc quanh cửa rồi bước vào trong nhà thờ với vẻ tò mò, và Martha, người đang ngồi gần cửa chỉ để đuổi gà, liền dùng cái sào phơi quần áo mà cô sử dụng rất thạo nhẹ nhàng xua chúng đi.
Bà Marston, người luôn đưa mắt nhìn Hazel mỗi khi thốt ra từ “Amen”, khi mà, như bà nói, người ta nên ngước lên giống như lũ gia cầm sau khi uống nước, thầm nghĩ thật đáng tiếc. Tiếc điều gì thì chính bà cũng không biết. Bà kết luận bằng câu, “Phải, người cha không có con không phải là kẻ có tội,” rồi vội nhắm mắt lại, ý thức được rằng chính mình lại sắp sửa phải nói “Amen”. Giọng của Edward nghe có vẻ nhẹ nhõm, và điều đó có nghĩa là nghi thức cầu nguyện sắp kết thúc.
Bà Marston ngước lên nhìn con trai và quyết định sẽ bỏ một ít cánh hồi vào trà của chàng. “Suy nghĩ cao xa quá cũng có hại chẳng khác gì một vật làm tắc mạch máu,” bà nghĩ. Nhưng đâu phải Edward đang suy nghĩ. Chàng đang làm một điều tích cực hơn nhều, đó là cảm nhận. Hazel ngạc nhiên trước vẻ linh hoạt trong đôi mắt của chàng khi chàng đứng dậy từ tư thế quỳ.
“Mình mừng vì mình là vợ của Ed’ard, chứ không phải là vợ của Reddin,” nàng nghĩ.
Đã một tuần rồi nàng không gặp Reddin, và từ lần gặp gỡ cuối cùng của họ ở trong rừng nàng sợ chạm trán gã đến nỗi không dám bước ra khỏi nhà.
Không có những chuyến đi vào rừng, ngày của nàng thật buồn tẻ, nhưng an toàn.
Edwarđ đọc chủ đề của bài thuyết giáo:
“Những điều Cha đã ban cho con không để mất điều gì.”
Tất cả sự dịu dàng của chàng dành cho Hazel và những gì thuộc về nàng len lỏi trong bài thuyết giáo của chàng. Chàng nói về sức mạnh của sự che chở như là việc làm tốt đẹp nhất, thánh thiện nhất trên đời. Chàng nói rằng phần thưởng hiển nhiên dành cho sự hi sinh bản thân mình của một người nào đó, nếu người đó sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân, chính là việc người đó có thể bảo vệ cho người thân yêu của mình khỏi mọi tai họa.
Tiếng chân bước trên sỏi nghe lạo xạo, và Reddin bước vào. Gã ngồi xuống chiếc ghế ở ngay phía sau Hazel. Edward ngẩng lên nhìn, mừng vì có thêm một giáo dân quan trọng nữa trong giáo đoàn của mình, và chàng tiếp tục thuyết giáo. Hazel, mặt hết đỏ bừng lại chuyển sang trắng bệch, biểu lộ sự bối rối khổ sở một cách rõ rệt đến nỗi Reddin gần như cảm thấy tội nghiệp cho nàng. Nhưng gã không rời mắt khỏi khuôn mặt của nàng.
Cuối cùng bà Marston, người luôn chăm chú theo dõi các dấu hiệu bên ngoài, thì thầm, “Con cảm thấy ngột ngạt chăng? Con có muốn ra ngoài không?”
Hazel bước ra ngoài với vẻ vội vã lúng túng, và bà Marston đi theo nàng, mấp máy môi gửi một cử chỉ trấn an rất khó hiểu về phía Edward.
Từ đó trở đi chàng cứ nói vấp hoài.
Nhận ra rằng mình đã bị đàn bà đánh lừa, Reddin mỉm cười đắc ý. Edward tự hỏi người đàn ông trông có vẻ đạo mạo với cái miệng toát lên vẻ lạnh lùng kia là ai. Chàng nghĩ nụ cười đó là biểu hiện của sự thích thú và điều đó khiến chàng bối rối. Nhưng Reddin đã hình thành quan điểm về chàng với ít nhiều sự tôn trọng.
Đây là một người đàn ông cần được tính đến.
“Tay mục sư bực mình rồi,” gã nghĩ trong khi nhìn Edward bằng ánh mắt sắc sảo, “thề có Chúa, mình sẽ kích động cơn bực tức đó!”
Gã lại mỉm cười y như cái cách gã cười khi đánh lũ ngựa.
Thế rồi bỗng nhiên gã đứng dậy, bước ra khỏi nhà thờ. Bà Marston, đang kiểm tra thứ rượu bổ được làm từ quả mâm xôi trong phòng khách, nghe thấy tiếng gõ cửa bèn đi ra.
“Tôi có thể giúp gì được chăng?” gã hỏi bằng giọng dễ nghe nhất. “Các vị có cần gọi bác sĩ hoặc cần tôi giúp gì không?”
Bà Marston khẽ cười. Bà thích những người đàn ông trẻ tuổi, và bà nghĩ Reddin là một “con người tử tế”. Bà thích cái cung cách lịch sự của gã khi gã đứng đó, ngã mũ cầm trong tay đợi lệnh. Trên hết, bà tò mò.
“Không, cảm ơn,” bà nói. “Nhưng xin mời vào trong nhà. Cậu tốt bụng quá. Hôm nay quả là nóng nực! Nhưng ở trong phòng khách rất dễ chịu. Mời cậu dùng chút đồ giải khát. Cậu muốn dùng gì nhỉ?”
“Rượu sherry,” gã nói, trong khi nhìn thẳng vào mắt Hazel.
“Tôi không biết liệu còn chai rượu Giáng sinh nào không, nhưng tôi sẽ đi tìm xem sao,” bà nói, trong tâm trạng bối rối. Người luôn hãnh diện về tài nội trợ như bà khi cần lại không có lấy một giọt rượu sherry nào thì quả là một bi kịch!
Bước chân của bà lịm dần theo những bậc thang dẫn xuống tầng hầm.
“Vậy ra em nghĩ em đã đánh lừa được tôi phải không?” gã nói. “Em thừa biết tôi sẽ không luyện ngựa suốt cả đời mà không được gì.”
“Hãy để tôi yên.”
“Thực lòng em không muốn tôi để em yên.”
“Có! Tôi muốn.”
“Sau khi tôi đã đi từng ấy dặm đường để gặp em, ngày nào cũng như ngày nào ư?”
“Tôi không quan tâm ông đã đi bao nhiêu dặm,” Hazel nói một cách gay gắt. “Ông làm thế để làm gì chứ? Hãy trở về với ngôi nhà tối tăm của ông đi, và hãy để tôi yên!”
Reddin rũ bỏ sự lầm lì của mình.
Nàng ngồi trên chiếc ghế tựa kê ở phía trước sofa. Gã vươn tay ra, kéo nàng về phía gã, kéo mạnh đến nỗi đầu nàng va vào khung sofa làm bằng gỗ gụ.
“Không bao giờ,” gã nói.
Gã hôn nàng điên cuồng, và qua những nụ hôn gã bù đắp cho mình sự chờ đợi trong mấy tuần qua. Nàng kêu lên vì đau; những cái hôn của gã làm nàng đau; một bên vai rắn chắc của gã ép lên ngực nàng. Cơ thể nàng run lên bởi những cơn chấn động kỳ lạ. Nàng kháng cự bằng bàn tay siết chặt. Gã cười thành tiếng.
“Em sẽ trở nên biết điều chứ? Em sẽ làm theo những gì tôi bảo chứ?” gã hỏi.
“Tôi sẽ rất biết ơn,” nàng nói bằng giọng yếu ớt, “nếu ông nhích vai ra một chút.”
Có điều gì đó trong lời yêu cầu của nàng khiến cho gã xúc động. Gã ngồi im lặng một lát trong chiếc ghế tựa của Edward và họ nhìn nhau trong sự bất động đầy ám ảnh. Reddin cảm thấy có lỗi vì sự thô bạo của mình, nhưng gã không nói ra điều đó.
Rồi họ nghe thấy tiếng bước chân lệt xệt của bà Marston, và thấy bà đi vào phòng mang theo một chiếc bình thót cổ.
“Đây là vang nổ lý gai,” bà nói, “được làm theo công thức của Susan Waine! Bà ấy là em họ của chồng tôi đấy, và là một người rất tử tế. Trong nhà bà ấy không có bất cứ thứ gì có thể chê được, và Susan có tận mười hai đứa con. Tôi không nhớ rõ trong lễ tang của bà ấy, tấm thảm (thảm đay màu xanh lá cây có hai mặt như nhau) đã bị những người khiêng quan tài làm nhăn nhúm như thế nào. Và George Waine đã nói, ‘Tấm thảm ra nông nổi này sẽ khiến Susan lo lắng lắm đây,’ rồi ông ấy bật khóc, tội nghiệp! Và ông ấy khóc cho tới khi bữa tiệc bị phá hỏng hoàn toàn, tính thần của chúng tôi chùng xuống cả. Tôi đang nói đến đâu nhỉ? À, phải, rượu lên men rồi, cậu thấy đấy, đến mùa hè là rượu này được bốn năm đấy. Nhưng tôi chắc rằng tôi phát cáu vì chẳng có lấy một giọt rượu sherry nào, bởi vì Martha còn đang nghĩ đến việc uống hết chỗ rượu cặn và trả lại bình. Đấy, cậu thì lại hỏi đến rượu sherry!”
“Tôi ư? Ồ, tôi cũng thích rượu này lắm, cảm ơn phu nhân.”
Gã cảm thấy bứt rứt khi ngồi uống rượu vang ở nhà Marston. Lừa dối bà già này gã thấy chẳng đàng hoàng chút nào. Gã không mảy may day dứt trước Hazel. Nếu Hazel biết điều, gã sẽ mang đến cho nàng một cuộc sống mà nàng thích, và những thứ mà bản năng của nàng khao khát. Có thể gã đã đúng khi hình dung rằng bản năng của nàng là kẻ phản bội đối với tính cách của nàng. Bởi Tự Nhiên – bà mẹ mỉa mai đó – trong khi gào lên bằng giọng điệu của mười nghìn con chim sơn ca rằng, “ Hãy giành lấy những gì con muốn, các con của ta,” thì trong bóng tối của căn buồng phù thủy, lại đảm bảo rằng những đứa con của bà muốn những gì mà bà sắp đặt.
“Cậu thích rượu này chứ, cậu…? Tôi không nhớ tên của cậu,” bà Marston nói.
“Reddin, thưa phu nhân. Jack Reddin ở trang trại Undern.”
Cái tên đó vang lên trong căn phòng yên tĩnh với âm thanh gây sửng sốt, tựa như tiếng súng nổ trong một khu rừng đêm khi lũ chim đang yên giấc.
Đúng lúc đó Edward về nhà, không đợi đến khi ông James đếm số tiền quyên được bằng giọng lầm lì của ông ta.
“Mẹ à, Hazel ổn chứ mẹ?” vừa đặt chân lên ngưỡng cửa chàng đã cất tiếng hỏi.
“Ồ, con yêu. Chỉ vì nóng quá thôi mà. À, có một quý ông đến gặp con đây. Ông Reddin ở Undern.”
Edward bước tới chìa tay ra, và Reddin bắt tay chàng. Ánh mắt họ gặp nhau; một sự im lặng lạ lùng bao trùm khắp căn phòng; Hazel thở dài trong run rẩy.
“Rất vui được thấy ông trong buổi thuyết giáo nhỏ của tôi, ông Reddin,” Edward nói bằng giọng hòa nhã.
Reddin mỉm cười, và nói, “Cảm ơn.”
“Tôi lấy làm mừng nếu như sự đơn sơ của chúng tôi có gì đó hấp dẫn ông,” Edward tiếp tục nói, tự hỏi không biết có thật các bài giảng đạo của chàng không đến nỗi tệ hay không.
Reddin lại khẽ cười. Edward lại cho rằng đó là do tính nhút nhát.
“Tôi hi vọng chúng tôi sẽ thường xuyên được thấy ông đến dự các buổi hành lễ với chúng tôi.”
Mắt Reddin hơi nheo lại. “Vâng, cảm ơn. Tôi sẽ lại đến nữa.”
“Ông sẽ ở lại dùng bữa với chúng tôi chứ?”
“Cảm ơn.”
Gã thôi không còn cảm thấy mình thiếu đàng hoàng nữa. Gã tuyệt đối không ăn năn trước Edward. Đây là chuyện giữa một người đàn ông với một người đàn ông, và chuyện giữa một người đàn bà và người đàn ông chiến thắng. Đây là cái luật được tổ tiên của gã thừa nhận một cách công khai, và là luật được bản thân gã, và những người cùng thời với gã, thầm thừa nhận. Gã bắt đầu thấy phấn khích như thể gã đang gia vào cuộc đua vượt rào.
Edward đi tới, ngồi xuống bên Hazel, dịu dàng hỏi, “Cô bé của tôi thế nào rồi?”
Nàng ngước lên nhìn chàng, im lặng và mỉm cười. Reddin nhìn họ trong chốc lát, phân tích thái độ của họ theo cách riêng của gã. Đối với những cái đầu không trong sạch mọi sự chân thành của lời nói và hành động đều đáng nghi ngờ. Rồi gã đột nhiên quay sang bà Marston.
“Tôi không thể ở lại được,” gã nói. “Tôi vừa sực nhớ ra – tôi có việc phải giải quyết. Cảm ơn phu nhân rất nhiều” – gã nhìn Hazel vẻ nghĩ ngợi – “vì rượu sherry.”
Gã bước ra khỏi nhà họ. “Con ạ.” – bà Marston nói bằng giọng hỉ hả - “chẳng phải mẹ luôn nói rằng rượu lý gai được làm theo công thức của Susan Waine cũng ngon chẳng kém gì rượu sâm banh sao? Đấy, giờ con đã thấy mẹ nói đúng nhé. Vì cậu Reddin ở ấp Undern – và cậu ấy đúng là một chàng trai trẻ thú vị mặc dầu cậu ấy có cái miệng không ưa nhìn cho lắm – và mẹ nhớ hồi còn là con gái mẹ đã thấy một người đàn ông có cái miệng như thế đến dự hội chợ tháng Năm với một cái bánh xe quay mầu nhiệm, và thật lạ là cái bánh xe đó chẳng bao giờ dừng lại ở mốc của một trong những giải thưởng trừ khi chính ông ta tự quay nó; Thế đấy! Mẹ rất muốn có được con mèo sứ màu vàng xanh và mẹ đã dùng đến đồng xu cuối cùng để chơi, nhưng cái bánh xe cứ quay miết.”
“Tội nghiệp mẹ!”
“Đúng thế con ạ, mẹ khóc như mưa. Và từ đó trở đi mẹ không bao giờ tin cái miệng đó nữa. Nhưng, tất nhiên, cậu Reddin không phải hạng người đó đâu.”
“Con không quan tâm đến ông ta lắm đâu,” Edward nói.
“Con cũng không quan tâm nữa,” Hazel nói bằng giọng thật thà.
Ở nhà thờ Hazel cảm thấy rất tự hào về Edward, và ít nhiều e sợ trước tác phong và vẻ lơ đễnh của chàng. Vào những ngày Chúa nhật tràn ngập hương thơm của hoa tử đinh hương, khi mà chàng đọc những mẩu truyện tình yêu thoang thoảng mùi hương xa xưa mà chàng từng sùng kính, nàng đã gần như phải lòng chàng. Giọng chàng thật dịu dàng và sâu sắc .
“Và chàng cưới vợ, rồi nàng sinh cho chàng một đứa con trai.”
Có thể chính chất giọng dịu dàng và sâu sắc của Edward đã nói những lời này với nàng một cách hùng hồn, hoặc cũng có thể Reddin đã phá hủy nét vô tư trẻ con của nàng, nhưng dù gì nàng cũng đã bắt đầu đem những truyện cổ tích đó gắn vào cuộc sống của riêng mình. Nàng ghen tị với những người đàn bà quyến rũ trong thế giới xa xưa. Họ thật cao ráo, phục sức thật lộng lẫy, sống dưới những cái cây đầy quả vàng và bầu trời lúc nào cũng ngời lên một màu xanh thăm thẳm, không có bà già nào hết.
Câu chuyện của họ diễn ra thật êm ả theo những mạch thẳng thớm, không giống như những sợi len rối rắm của nàng. Nàng bắt đầu ao ước được trở thàng một trong những nhân vật mắt đen, trong sáng và bất biến như ngà voi bóng loáng, di chuyển chầm chậm và lướt đi thật điềm tĩnh vào lúc rạng đông, đội trên đầu những bình đựng nước đẹp đẽ dành cho một thế giới đang khô khát với vẻ uyển chuyển nhàn nhã.
Edward đã cho nàng xem một bức tranh như thế trong cuốn Kinh Thánh có tranh minh họa của mẹ chàng. Theo bản năng nàng giật mình trước mối liên hệ duy nhất giữa nàng và những nhân vật đó.
“Ed’ard đã cưới mình làm vợ,” nàng nghĩ. Cảm giác ngọt ngào nhất của những ý nghĩ mới mẻ mơ hồ khuấy động tâm trí nàng như những búp lá phát triển bên trong vỏ của cái cây mùa xuân. Chúng mang đến cho khuôn mặt nàng một nét biểu lộ mới.
Ánh mắt của Edward tiếp tục lạc trong vùng ánh sáng mặt trời vẩn bụi nơi nàng ngồi, nơi khuôn mặt của nàng cúi xuống đầy bí ẩn và tràn đầy sức sống khi nó được ngắm ở một góc độ mới. Vẻ nghiêm trang của nàng trong nhà thờ trái ngược hẳn với vẻ hoang dã ngây thơ phảng phất quanh bờ môi nàng.
Edward cố gắng tập trung vào những lời cầu nguyện, chàng ước gì mình là một người theo Tân giáo, có những lời cầu nguyện được soạn sẵn để chàng chỉ việc đọc. Một lần chàng nói điều đó với mẹ chàng và bà đã rất sửng sốt. Bà nói rằng những lời cầu nguyện mà họ tự nghĩ ra, giống như bánh mì và mứt nhà làm, bao giờ cũng tốt nhất.
“Chẳng hạn như mứt được làm ở nhà máy, cái thứ ấy nhếch nhác lắm, và chẳng có gì đáng nói. Và những lời cầu nguyện hay nhất được in sẵn trong sách không hơn gì loại bột bốn xu một cân.”
Edward nói vấp, như ông James sau này nói, “giống con ngựa cái Betsy của tôi, đi một bước lại vấp một bước, gật đầu một cái rồi lại lạch bạch đi tiếp.”
Trong nhà thờ vẫn nóng, mặc dù ở bên ngoài không khí mát mẻ của buổi tối đã bao trùm và những chú chim đã xuất hiện sau cơn hôn mê kéo dài cả ngày. Mấy con bồ câu rừng cất lên giọng vang sâu từ những trảng thông mờ tối, phát ra một thứ ngôn ngữ cổ xưa nhất của loài người. Bầy chim cúc cu ầm ĩ trong đám thông rụng lá bị gió xé, những cây thông đầy sức thanh xuân, ở phía sau nhà thờ. Một con chim két đang say sưa trong khúc cuồng tưởng của mình, rất nhàn nhã nhưng không biết mệt mỏi, về những chủ đề còn sâu hơn cả nước hồ Coppice ở phía xa xa, sâu như bí mật của quả trứng lốm đốm bị mổ vỡ trong tổ của nó trên bụi gai kia. Đâu đó trong những bụi đậu chồi màu vàng bầy chim chiền chiện đang nô đùa, thực hiện những chuyến bay ngắn, và hát những bài ca êm dịu, Đàn ong rừng màu cam rực rỡ và đàn ong nghệ bay lướt qua những ô cửa sổ mờ. Đám gà mái lông đen, lông trắng và đám gà trống choai của bà Marston mổ lộc cộc quanh cửa rồi bước vào trong nhà thờ với vẻ tò mò, và Martha, người đang ngồi gần cửa chỉ để đuổi gà, liền dùng cái sào phơi quần áo mà cô sử dụng rất thạo nhẹ nhàng xua chúng đi.
Bà Marston, người luôn đưa mắt nhìn Hazel mỗi khi thốt ra từ “Amen”, khi mà, như bà nói, người ta nên ngước lên giống như lũ gia cầm sau khi uống nước, thầm nghĩ thật đáng tiếc. Tiếc điều gì thì chính bà cũng không biết. Bà kết luận bằng câu, “Phải, người cha không có con không phải là kẻ có tội,” rồi vội nhắm mắt lại, ý thức được rằng chính mình lại sắp sửa phải nói “Amen”. Giọng của Edward nghe có vẻ nhẹ nhõm, và điều đó có nghĩa là nghi thức cầu nguyện sắp kết thúc.
Bà Marston ngước lên nhìn con trai và quyết định sẽ bỏ một ít cánh hồi vào trà của chàng. “Suy nghĩ cao xa quá cũng có hại chẳng khác gì một vật làm tắc mạch máu,” bà nghĩ. Nhưng đâu phải Edward đang suy nghĩ. Chàng đang làm một điều tích cực hơn nhều, đó là cảm nhận. Hazel ngạc nhiên trước vẻ linh hoạt trong đôi mắt của chàng khi chàng đứng dậy từ tư thế quỳ.
“Mình mừng vì mình là vợ của Ed’ard, chứ không phải là vợ của Reddin,” nàng nghĩ.
Đã một tuần rồi nàng không gặp Reddin, và từ lần gặp gỡ cuối cùng của họ ở trong rừng nàng sợ chạm trán gã đến nỗi không dám bước ra khỏi nhà.
Không có những chuyến đi vào rừng, ngày của nàng thật buồn tẻ, nhưng an toàn.
Edwarđ đọc chủ đề của bài thuyết giáo:
“Những điều Cha đã ban cho con không để mất điều gì.”
Tất cả sự dịu dàng của chàng dành cho Hazel và những gì thuộc về nàng len lỏi trong bài thuyết giáo của chàng. Chàng nói về sức mạnh của sự che chở như là việc làm tốt đẹp nhất, thánh thiện nhất trên đời. Chàng nói rằng phần thưởng hiển nhiên dành cho sự hi sinh bản thân mình của một người nào đó, nếu người đó sẵn sàng từ bỏ lợi ích cá nhân, chính là việc người đó có thể bảo vệ cho người thân yêu của mình khỏi mọi tai họa.
Tiếng chân bước trên sỏi nghe lạo xạo, và Reddin bước vào. Gã ngồi xuống chiếc ghế ở ngay phía sau Hazel. Edward ngẩng lên nhìn, mừng vì có thêm một giáo dân quan trọng nữa trong giáo đoàn của mình, và chàng tiếp tục thuyết giáo. Hazel, mặt hết đỏ bừng lại chuyển sang trắng bệch, biểu lộ sự bối rối khổ sở một cách rõ rệt đến nỗi Reddin gần như cảm thấy tội nghiệp cho nàng. Nhưng gã không rời mắt khỏi khuôn mặt của nàng.
Cuối cùng bà Marston, người luôn chăm chú theo dõi các dấu hiệu bên ngoài, thì thầm, “Con cảm thấy ngột ngạt chăng? Con có muốn ra ngoài không?”
Hazel bước ra ngoài với vẻ vội vã lúng túng, và bà Marston đi theo nàng, mấp máy môi gửi một cử chỉ trấn an rất khó hiểu về phía Edward.
Từ đó trở đi chàng cứ nói vấp hoài.
Nhận ra rằng mình đã bị đàn bà đánh lừa, Reddin mỉm cười đắc ý. Edward tự hỏi người đàn ông trông có vẻ đạo mạo với cái miệng toát lên vẻ lạnh lùng kia là ai. Chàng nghĩ nụ cười đó là biểu hiện của sự thích thú và điều đó khiến chàng bối rối. Nhưng Reddin đã hình thành quan điểm về chàng với ít nhiều sự tôn trọng.
Đây là một người đàn ông cần được tính đến.
“Tay mục sư bực mình rồi,” gã nghĩ trong khi nhìn Edward bằng ánh mắt sắc sảo, “thề có Chúa, mình sẽ kích động cơn bực tức đó!”
Gã lại mỉm cười y như cái cách gã cười khi đánh lũ ngựa.
Thế rồi bỗng nhiên gã đứng dậy, bước ra khỏi nhà thờ. Bà Marston, đang kiểm tra thứ rượu bổ được làm từ quả mâm xôi trong phòng khách, nghe thấy tiếng gõ cửa bèn đi ra.
“Tôi có thể giúp gì được chăng?” gã hỏi bằng giọng dễ nghe nhất. “Các vị có cần gọi bác sĩ hoặc cần tôi giúp gì không?”
Bà Marston khẽ cười. Bà thích những người đàn ông trẻ tuổi, và bà nghĩ Reddin là một “con người tử tế”. Bà thích cái cung cách lịch sự của gã khi gã đứng đó, ngã mũ cầm trong tay đợi lệnh. Trên hết, bà tò mò.
“Không, cảm ơn,” bà nói. “Nhưng xin mời vào trong nhà. Cậu tốt bụng quá. Hôm nay quả là nóng nực! Nhưng ở trong phòng khách rất dễ chịu. Mời cậu dùng chút đồ giải khát. Cậu muốn dùng gì nhỉ?”
“Rượu sherry,” gã nói, trong khi nhìn thẳng vào mắt Hazel.
“Tôi không biết liệu còn chai rượu Giáng sinh nào không, nhưng tôi sẽ đi tìm xem sao,” bà nói, trong tâm trạng bối rối. Người luôn hãnh diện về tài nội trợ như bà khi cần lại không có lấy một giọt rượu sherry nào thì quả là một bi kịch!
Bước chân của bà lịm dần theo những bậc thang dẫn xuống tầng hầm.
“Vậy ra em nghĩ em đã đánh lừa được tôi phải không?” gã nói. “Em thừa biết tôi sẽ không luyện ngựa suốt cả đời mà không được gì.”
“Hãy để tôi yên.”
“Thực lòng em không muốn tôi để em yên.”
“Có! Tôi muốn.”
“Sau khi tôi đã đi từng ấy dặm đường để gặp em, ngày nào cũng như ngày nào ư?”
“Tôi không quan tâm ông đã đi bao nhiêu dặm,” Hazel nói một cách gay gắt. “Ông làm thế để làm gì chứ? Hãy trở về với ngôi nhà tối tăm của ông đi, và hãy để tôi yên!”
Reddin rũ bỏ sự lầm lì của mình.
Nàng ngồi trên chiếc ghế tựa kê ở phía trước sofa. Gã vươn tay ra, kéo nàng về phía gã, kéo mạnh đến nỗi đầu nàng va vào khung sofa làm bằng gỗ gụ.
“Không bao giờ,” gã nói.
Gã hôn nàng điên cuồng, và qua những nụ hôn gã bù đắp cho mình sự chờ đợi trong mấy tuần qua. Nàng kêu lên vì đau; những cái hôn của gã làm nàng đau; một bên vai rắn chắc của gã ép lên ngực nàng. Cơ thể nàng run lên bởi những cơn chấn động kỳ lạ. Nàng kháng cự bằng bàn tay siết chặt. Gã cười thành tiếng.
“Em sẽ trở nên biết điều chứ? Em sẽ làm theo những gì tôi bảo chứ?” gã hỏi.
“Tôi sẽ rất biết ơn,” nàng nói bằng giọng yếu ớt, “nếu ông nhích vai ra một chút.”
Có điều gì đó trong lời yêu cầu của nàng khiến cho gã xúc động. Gã ngồi im lặng một lát trong chiếc ghế tựa của Edward và họ nhìn nhau trong sự bất động đầy ám ảnh. Reddin cảm thấy có lỗi vì sự thô bạo của mình, nhưng gã không nói ra điều đó.
Rồi họ nghe thấy tiếng bước chân lệt xệt của bà Marston, và thấy bà đi vào phòng mang theo một chiếc bình thót cổ.
“Đây là vang nổ lý gai,” bà nói, “được làm theo công thức của Susan Waine! Bà ấy là em họ của chồng tôi đấy, và là một người rất tử tế. Trong nhà bà ấy không có bất cứ thứ gì có thể chê được, và Susan có tận mười hai đứa con. Tôi không nhớ rõ trong lễ tang của bà ấy, tấm thảm (thảm đay màu xanh lá cây có hai mặt như nhau) đã bị những người khiêng quan tài làm nhăn nhúm như thế nào. Và George Waine đã nói, ‘Tấm thảm ra nông nổi này sẽ khiến Susan lo lắng lắm đây,’ rồi ông ấy bật khóc, tội nghiệp! Và ông ấy khóc cho tới khi bữa tiệc bị phá hỏng hoàn toàn, tính thần của chúng tôi chùng xuống cả. Tôi đang nói đến đâu nhỉ? À, phải, rượu lên men rồi, cậu thấy đấy, đến mùa hè là rượu này được bốn năm đấy. Nhưng tôi chắc rằng tôi phát cáu vì chẳng có lấy một giọt rượu sherry nào, bởi vì Martha còn đang nghĩ đến việc uống hết chỗ rượu cặn và trả lại bình. Đấy, cậu thì lại hỏi đến rượu sherry!”
“Tôi ư? Ồ, tôi cũng thích rượu này lắm, cảm ơn phu nhân.”
Gã cảm thấy bứt rứt khi ngồi uống rượu vang ở nhà Marston. Lừa dối bà già này gã thấy chẳng đàng hoàng chút nào. Gã không mảy may day dứt trước Hazel. Nếu Hazel biết điều, gã sẽ mang đến cho nàng một cuộc sống mà nàng thích, và những thứ mà bản năng của nàng khao khát. Có thể gã đã đúng khi hình dung rằng bản năng của nàng là kẻ phản bội đối với tính cách của nàng. Bởi Tự Nhiên – bà mẹ mỉa mai đó – trong khi gào lên bằng giọng điệu của mười nghìn con chim sơn ca rằng, “ Hãy giành lấy những gì con muốn, các con của ta,” thì trong bóng tối của căn buồng phù thủy, lại đảm bảo rằng những đứa con của bà muốn những gì mà bà sắp đặt.
“Cậu thích rượu này chứ, cậu…? Tôi không nhớ tên của cậu,” bà Marston nói.
“Reddin, thưa phu nhân. Jack Reddin ở trang trại Undern.”
Cái tên đó vang lên trong căn phòng yên tĩnh với âm thanh gây sửng sốt, tựa như tiếng súng nổ trong một khu rừng đêm khi lũ chim đang yên giấc.
Đúng lúc đó Edward về nhà, không đợi đến khi ông James đếm số tiền quyên được bằng giọng lầm lì của ông ta.
“Mẹ à, Hazel ổn chứ mẹ?” vừa đặt chân lên ngưỡng cửa chàng đã cất tiếng hỏi.
“Ồ, con yêu. Chỉ vì nóng quá thôi mà. À, có một quý ông đến gặp con đây. Ông Reddin ở Undern.”
Edward bước tới chìa tay ra, và Reddin bắt tay chàng. Ánh mắt họ gặp nhau; một sự im lặng lạ lùng bao trùm khắp căn phòng; Hazel thở dài trong run rẩy.
“Rất vui được thấy ông trong buổi thuyết giáo nhỏ của tôi, ông Reddin,” Edward nói bằng giọng hòa nhã.
Reddin mỉm cười, và nói, “Cảm ơn.”
“Tôi lấy làm mừng nếu như sự đơn sơ của chúng tôi có gì đó hấp dẫn ông,” Edward tiếp tục nói, tự hỏi không biết có thật các bài giảng đạo của chàng không đến nỗi tệ hay không.
Reddin lại khẽ cười. Edward lại cho rằng đó là do tính nhút nhát.
“Tôi hi vọng chúng tôi sẽ thường xuyên được thấy ông đến dự các buổi hành lễ với chúng tôi.”
Mắt Reddin hơi nheo lại. “Vâng, cảm ơn. Tôi sẽ lại đến nữa.”
“Ông sẽ ở lại dùng bữa với chúng tôi chứ?”
“Cảm ơn.”
Gã thôi không còn cảm thấy mình thiếu đàng hoàng nữa. Gã tuyệt đối không ăn năn trước Edward. Đây là chuyện giữa một người đàn ông với một người đàn ông, và chuyện giữa một người đàn bà và người đàn ông chiến thắng. Đây là cái luật được tổ tiên của gã thừa nhận một cách công khai, và là luật được bản thân gã, và những người cùng thời với gã, thầm thừa nhận. Gã bắt đầu thấy phấn khích như thể gã đang gia vào cuộc đua vượt rào.
Edward đi tới, ngồi xuống bên Hazel, dịu dàng hỏi, “Cô bé của tôi thế nào rồi?”
Nàng ngước lên nhìn chàng, im lặng và mỉm cười. Reddin nhìn họ trong chốc lát, phân tích thái độ của họ theo cách riêng của gã. Đối với những cái đầu không trong sạch mọi sự chân thành của lời nói và hành động đều đáng nghi ngờ. Rồi gã đột nhiên quay sang bà Marston.
“Tôi không thể ở lại được,” gã nói. “Tôi vừa sực nhớ ra – tôi có việc phải giải quyết. Cảm ơn phu nhân rất nhiều” – gã nhìn Hazel vẻ nghĩ ngợi – “vì rượu sherry.”
Gã bước ra khỏi nhà họ. “Con ạ.” – bà Marston nói bằng giọng hỉ hả - “chẳng phải mẹ luôn nói rằng rượu lý gai được làm theo công thức của Susan Waine cũng ngon chẳng kém gì rượu sâm banh sao? Đấy, giờ con đã thấy mẹ nói đúng nhé. Vì cậu Reddin ở ấp Undern – và cậu ấy đúng là một chàng trai trẻ thú vị mặc dầu cậu ấy có cái miệng không ưa nhìn cho lắm – và mẹ nhớ hồi còn là con gái mẹ đã thấy một người đàn ông có cái miệng như thế đến dự hội chợ tháng Năm với một cái bánh xe quay mầu nhiệm, và thật lạ là cái bánh xe đó chẳng bao giờ dừng lại ở mốc của một trong những giải thưởng trừ khi chính ông ta tự quay nó; Thế đấy! Mẹ rất muốn có được con mèo sứ màu vàng xanh và mẹ đã dùng đến đồng xu cuối cùng để chơi, nhưng cái bánh xe cứ quay miết.”
“Tội nghiệp mẹ!”
“Đúng thế con ạ, mẹ khóc như mưa. Và từ đó trở đi mẹ không bao giờ tin cái miệng đó nữa. Nhưng, tất nhiên, cậu Reddin không phải hạng người đó đâu.”
“Con không quan tâm đến ông ta lắm đâu,” Edward nói.
“Con cũng không quan tâm nữa,” Hazel nói bằng giọng thật thà.