Chương : 27
Sáng sớm hôm sau Vessons đi gọi lũ bò cái tập trung lại để vắt sữa. Lão đu người trên cánh cổng phủ đầy địa y với vẻ trầm ngâm.
Mọi sắc màu đều rực rỡ đến nỗi chúng trở nên kệch cỡm và gây sửng sốt. Phía trên những cánh đồng đang ngời lên màu xanh mãnh liệt, bầu trời ánh lên tựa như mặt kính màu xanh dương, và trải khắp phía Đông là hai đám mây màu thần sa dài lê thê. Phía sau ngọn đồi xanh sẫm, vầng mặt trời đã nhô lên, chiếu sáng rực rỡ, và cái bóng của Vessons, người đang đứng trên thanh thấp nhất của cánh cổng như một con khỉ, đổ dài trên vạt cỏ ba lá ướt đẫm sương phía sau lão – một hình hài trông như yêu tinh, màu tím, được trời ban cho vẻ đường hoàng dễ nhận thấy. Đám bò cái không xuất hiện ngay sau tiếng gọi đầu tiên của lão. Lão gân cổ lên gọi tiếp bằng giọng cao rầu rĩ của mình, giống như một người đang tranh luận với một đứa trẻ cáu kỉnh. “Vào đi, vào đi!” Rồi lão lại chìm trước quang cảnh choáng ngợp của thiên nhiên. Một lúc sau, một con bò cái mình trắng pha đỏ bóng mượt xuất hiện ở một khoảng cách khá xa, lặng lẽ thong thả đi tới. Từ phía xa xa một con bò trắng và một con bò lang bắt đầu đi theo nó. Chúng đi qua những bóng râm, mỗi con đều đi qua điểm chính giữa của những cánh cổng luôn mở sẵn như cửa dẫn vào một dãy phòng tại một khu vực tiếp tân. Vessons kiên nhẫn chờ đợi – như một kẻ nô lệ hơn là một người điều khiển – chỉ thốt ra những tiếng gọi não nùng “Và…o đi!” thêm một lần duy nhất khi con bò cuối cùng cứ nấn ná mãi với một búi cỏ tươi tốt ở hàng rào. Đây là thủ tục hàng ngày. Sáng nào lão cũng từ trong nhà đi ra cổng và cất tiếng gọi bò trong quang cảnh gần như trống trải; sáng nào lũ bò sữa cũng thơ thẩn tiến vào qua bảy cái cổng từ những bìa rừng đầy lá bí ẩn nơi chúng ngủ qua đêm.
Với ánh mắt bí ẩn, dáng vẻ nhàn nhã, màu lông trắng đỏ sinh động, chúng đi theo ông già đó như những nữ hoàng đi theo người dẫn chỗ.
Hazel đang từ trong nhà đi ra con đường nhỏ. Sáng ra, sức sống dồi dào của nàng lại quay trở lại. Thế giới bên ngoài mới mẻ và tươi sáng, và nàng muốn, với chút bẽn lẽn, thức dậy và thay quần áo trước khi Reddin tỉnh giấc.
Nàng cảm thấy thích thú trước cung cách phục vụ của Vessons đối với những con bò.
“Ông gọi chúng là ‘bà’ chứ?” nàng hỏi.
Vessons nhìn nàng từ đầu đến chân. Lão rất tức giận, không chỉ tức trước lời bình phẩm của nàng, mà còn tức giận trước sự thật rằng lão khó mà cãi lại nàng được, bởi giờ đây nàng đã là “bà chủ”. Sự thân thiện của lão dành cho nàng tất thảy đều đã tan biến, không phải vì tối qua nàng đưa chân đến Undern, mà vì nàng đã làm đám cưới với Edward. Lão cảm thấy nàng đã “đi ngược lại tín ngưỡng độc thân.” Lão từng coi nàng là đồng chí, nhưng bây giờ nàng đã hóa thành kẻ thù. Lão cũng rất bực vì tối qua đã phải thức khuya.
Lão nhấm cọng rơm một lúc, cho tới khi con bò cuối cùng biến mất. Rồi lão nói, “Là một người đàn bà đã có chồng, hay là gì gì đi nữa, cô cũng dậy sớm đấy, cô chủ ạ.”
Hazel bật cười. Nàng đã sống hoàn toàn ở bên ngoài sự ảnh hưởng của những quy tắc xã hội đến nỗi sự châm chọc chẳng khiến nàng mảy may tức giận.
“A ha! Ông đang ghen tị đấy!” nàng nói.
Thế rồi, bắt chước giọng nói và vẻ mặt của lão, nàng nói thêm:
“Bà chủ ở Undern! Không đời nào!”
Lão nao núng trước đôi mắt màu hổ phách đầy chế giễu của nàng, trước tiếng cười tinh quái của nàng. Rồi, hết nhìn bên trái, lại nhìn bên phải với vẻ tức giận bị kìm nén, lão nói, “Lũ chim đang bâu lấy cây anh đào! Tôi phải đi lấy súng mới được. Tôi sẽ bắn chết chúng!”
“Nếu ông bắn một con chim két, sữa sẽ biến thành máu,” Hazel nói; nhưng Vessons chẳng để ý đến những gì nàng nói.
Suốt cả buổi sáng, vào những lúc rảnh rỗi, và sau bữa trưa (bữa ăn mà lão dọn ra trong sự im lặng tuyệt đối, và là bữa ăn dở đến mức không thể chấp nhận được), lão lẻn ra nấp sau những thân cây, bò dọc hàng rào, bắn chim. Ngay cả Reddin cũng cảm thấy e sợ và không thể lấy nổi can đảm để chỉ trích lão. Trong bóng râm lẩn lút, âm u và trang nghiêm của buổi trưa con người già nua lóng ngóng với vẻ mặt bồn chồn và trái tim giận giữ ấy cứ lấp la lấp ló. Lão bắn chim hoét khi chúng đang hót thánh thót sau khi ăn no nê những quả mâm xôi mọc hoang; lão bắn chim hồng tước có bộ lông óng mượt, chim cổ đỏ, chim nhạn – sự linh thiêng của chúng không khiến lão nể sợ - một con chim bồ câu ở trong tổ của nó, những con chim két, những con chim hoét nước, một con chim sẻ cánh vàng và nhiều con sẻ thường. Khu vườn và những cánh đồng, vì lão mà bị đẩy vào im lặng; chỉ còn tiếng đập của những đôi cánh sợ hãi cho thấy lão đang ở góc nào. Lão chất chiến lợi phẩm của mình thành đống – những bộ lông chim đẹp nhất của mùa hè – lên chiếc bàn lấm lem, bê bết máu.
Hazel và Reddin rón rén đi từ ô cửa sổ này sang ô cửa sổ khác, im lặng theo dõi chuyển động của lão. Ấp Undern trở nên ma quái hơn bao giờ hết, khi những tiếng súng vang lên chát chúa trong bầu không khí ắng lặng, giống như một sinh vật đang hấp hối giật người lên vì những cú đấm.
“Lão ấy thích bắn tôi hơn là bắn mấy con chim kia!” Hazel nói. “Hễ tôi đi bất cứ đâu người ta cũng giết chóc các con vật. Tại sao họ lại làm thế?”
“Các con vật phải bị giết.”
“Dường như cả trái đất này đều nhuốm máu,” Hazel nói. “Và luôn là máu của những con vật bé nhỏ. Đấy! Lão ấy bắn chết một con chim hồng tước rồi. Ôi, trời ơi! Chẳng khác nào chính tôi đã giết chúng; chỉ vì tôi đến Undern mà sự thể mới ra nông nỗi này.”
“Im lặng nào!” Reddin gắt. “Tôi chỉ sợ lão sẽ tự bắn chính mình, lão kỳ cục lắm.”
Con bò cuối cùng đã ung dung đi ra cổng trước sau khi Vessons mở cổng ra và vắt sữa cho lũ bò. Sau đó lão xách mấy xô sữa đi vào, đặt chúng trên sàn phòng khách và nói với Hazel bằng giọng tức tối: “Máu đây hử?”
Nàng thừa nhận một cách yếu ớt rằng đó không phải là máu.
“À,” Vessons quay sang Reddin nói, “thông báo thôi việc. Thông báo thôi việc được Adrew Vessons báo trước – báo trước một tháng – cho John Reddin, ông chủ của ấp Undern.”
Với vẻ đĩnh đạc bi thảm lão quay gót.
Lão chẳng thèm để ý Hazel hay Reddin, mà chỉ quan tâm đến con thiên nga được uốn từ cây thủy tùng, tạo tác của lão, giờ đây phải chịu số phận mãi mãi không được hoàn thiện. Các thế hệ đến nơi này sẽ nhìn lên một con thiên nga không có mỏ, và sẽ nghĩ lão chủ bụng tạo ra nó như thế. Lệ dâng trong mắt lão – những giọt lệ đau khổ trào ra một cách khó khăn. Căn phòng ngập đầy nỗi khổ ải. Reddin cảm thấy sững sờ.
“Tại sao, Vessons?” gã nói bằng giọng ngượng ngùng.
Vessons không quay đầu lại. Lão sờ sẫm tìm nắm cửa. Reddin đứng dậy đi ra chỗ lão.
“Tại sao, Vessons?” gã hỏi lại, đặt tay lên vai lão. “Tôi và lão không thể chia lìa được, lão biết mà.”
“Chúng ta buộc phải chia lìa thôi.”
“Nhưng tại sao? Có chuyện gì vậy, Andrew?”
Cái tên thánh hiếm khi được nhắc đến vang lên khiến Vessons mềm lòng. Lão hạ cố giải thích. “Cô ta,” lão nói, hất hàm về phía Hazel, “Cô ta chế giễu tôi.”
“Em đã làm chuyện đó ư, Hazel?”
“Lúc ấy đấy, cô chủ!” Vessons nhìn nàng trừng trừng.
“Tôi chỉ nói…”
“Cô ta nói, ‘Không đời nào!’ “ Vessons gào lên. “Phải, cô ta đã nói thế đấy – ‘Không đời nào!’ cô ta nhại lại lời tôi,” lão nói thêm với niềm kiêu hãnh của kẻ đã sáng tạo ra một cụm từ.
Reddin chẳng thể hiểu được lão cũng chẳng thể hiểu được nàng, một người thì đỏ bừng mặt vì tức giận, một người thì giàn giụa nước mắt.
“Tôi sẽ không đời nào làm theo ý của một người đàn bà!” Vessons nói.
“Nghe này, Vessons! Lão phải biết điều chứ. Nghe tôi nói này. Tôi là ông chủ của lão, đúng không?”
“Đúng! Trong một tháng nữa ông vẫn là ông chủ của tôi.”
“Ồ, lão nghe lệnh của tôi; vấn đề là ở chỗ đó. Ở đây tôi là ông chủ.”
Tiếng nói của dòng họ vang lên trong giọng gã – dòng họ được thống trị và được làm lợi bởi những người đàn ông và những người đàn bà giỏi như họ, hoặc hơn họ.
“Vậy nên chúng ta không phải nói gì thêm về chuyện này nữa,” gã kết thúc, với nụ cười ngay thật và quyến rũ, một trong số ít những nét hấp dẫn ở gã.
Vessons tròn mắt nhìn gã một lát, và, trong khi lão nhìn, một ý nghĩ chợt hiện lên trong đầu lão. Lão cảm thấy đó là một ý hay. Nó sẽ cho phép lão giữ được con thiên nga cũng như lòng tự trọng của lão và cho phép lão tống khứ Hazel. Khi lão nghiền ngẫm ý đó, khuôn mặt lão dần nở một nụ cười. Lão chạm tay vào chõm tóc trước trán mình – một động tác chỉ được thực hiện vào ngày lão nhận tiền công – và rút lui, vừa đi vừa lẩm bẩm, “Thông báo nghỉ việc đã được rút lại.”
Hai người nhìn lão bước đi bên ngoài ô cửa sổ cùng với cái thang và dụng cụ xén tỉa cây, rõ ràng lão đang đến với con thiên nga của lão.
Reddin nghĩ thật dễ dàng để điều khiển những kẻ thấp kém như lão – chỉ cần chút quyền lực, chút xảo thuật mà thôi. Gã quay sang Hazel, giờ đây đang ngồi khóc trên chiếc ghế bành được làm từ gỗ sồi đen với những cái gối tựa bọc vải đỏ bạc phếch. Nàng đang khóc, không phải chỉ vì Vessons đã thắng, mà còn vì vị trí của nàng giờ đây đã được xác định, và đó không phải là vị trí mà nàng thích, và nàng khóc bởi vì thái độ của Reddin đối với nàng đã lại thay đổi sau buổi tối hôm qua.
Tối qua, trong bóng tối đầy khó chịu của Rừng Của Thợ Săn, trong chốc lát gã dường như đã trờ thành người bạn cùng lánh nạn của nàng, một kẻ không có khả năng tự vệ, trốn khỏi một thế lực mơ hồ đáng sợ. Khi đó nàng đã cảm thấy thương cho gã – một cách quên mình, một cách mãnh liệt – đặt đầu gã lên ngực nàng như nàng thường làm với Cáo Nhỏ. Nhưng bây giờ gã dường như đã quên chuyện đó – dường như một lần nữa gã lại thuộc về thế giới của những kẻ tinh ranh, đầy sức mạnh, những kẻ giẫm đạp lên kẻ yếu.
Nàng lại khóc nức nở.
“Nghe này, Hazel,” gã nói, cố khiến cho giọng của mình nghe có vẻ ân cần nhưng hóa ra lại thành cứng rắn – “nghe này: tôi không giận dữ với em, chỉ có điều em phải để Vessons yên, em biết mà.”
“Ông muốn lão già đó hơn tôi!”
“Đừng ngốc thế! Lão có tác dụng của lão; em có tác dụng của em.”
Gã nói với vẻ tàn nhẫn vô thức; gã đã nói lên cái lý thuyết của tầng lớp gã, của đảng phái chính trị của gã, cái lý thuyết dù là ngụ ý hay công khai thì đều đã khẳng định rằng đàn bà, những kẻ nô bộc, và những con vật đều là đối tượng phục vụ lợi ích cho tầng lớp gã.
“Tôi không phải là cỏ để người ta giẫm lên,” Hazel nói, “và nếu ông không thể nói năng lịch sự thì tôi sẽ đi khỏi đây.”
“Em không thể đi,” gã đáp, “không phải bây giờ.”
Nàng biết đó là sự thật, và việc nàng nhận ra rằng bản chất tự nhiên của nàng phản bội lại tự do của nàng càng khiến nàng thêm tức giận.
“Em không thể đi,” gã tiếp tục nói, và bước tới để an ủi nàng. “Để tôi nói cho em biết tại sao nhé?”
Hazel ngồi thẳng người lên, nhìn gã, đôi mắt nàng đượm buồn, vầng trán nàng đỏ ửng sau cơn nức nở. Gã nghĩ nàng đang đợi câu trả lởi của gã; nhưng Hazel hiếm khi nói hoặc làm những gì mà gã phỏng đoán. Nàng để cho gã quỳ một chân bên ghế của nàng; rồi, nàng chau mày hỏi: “Ai đã khóc ở Rừng Của Thợ Săn?” Gã nhảy dựng lên như thể vừa quỳ phải bàn chông. Gã đã và đang cố quên chuyện đó đi, và hi vọng rằng nàng đã quên. Gã xấu hổ một cách cay đắng về cái khoảnh khắc thực sự đẹp đẽ ấy trong cuộc đời mình.
“Đừng nhắc lại chuyện đó nữa, Hazel!” gã nói.
Gã cảm thấy sợ hãi khi nhớ lại hành vi của mình lúc đó. Cảm giác nghi ngờ bản thân rất mạnh mẽ nảy sinh trong đêm đó giờ lại dâng lên trong gã. Con người gã đúng như gã đã nghĩ chăng? Thế giới này đúng như gã đã nghĩ chăng? Cảm giác nghi ngại xâm chiếm gã. Có lẽ gã không được phép đưa Hazel tới đây hoặc tới Rừng Của Thợ Săn. Một chuẩn mực đạo đức lâu đợi hơn cả những chuẩn mực đạo đức của giáo hội và nhà nước bắt đầu bùng lên trước mắt gã, lên án gã.
Bỗng nhiên gã muốn khẳng định chắc chắn một lần nữa. “Em đã thực sự muốn đến đó, đúng không? Tôi đã không lợi dụng em một cách quá đáng, đúng không nào?” gã hỏi. “Em muốn ở lại đây, đúng không?”
“Không, tôi không muốn đến đó cho đến khi ông buộc tôi phải đến. Ông đã lợi dụng tôi. Nhưng có lẽ ông không thể dừng được. Có lẽ ông buộc phải làm thế.”
“Ai đã ép buộc tôi chứ?” gã hỏi, cố làm ra vẻ nghênh ngang.
Đôi mắt Hazel u uẩn và ám ảnh.
“Một cái gì đó rất mạnh và rất đáng sợ đã buộc chúng ta phải làm thế,” nàng nói.
Nàng hình dung thấy toàn thế giới đang chạy vòng quanh một cách điên loạn tựa như con ngựa đã thấm mệt và đầy sợ hãi mà sáng hôm ấy Reddin đã huấn luyện. Nhưng thứ sức mạnh trung tâm đã dễ dàng làm suy sụp tinh thần của con vật bị dây cương kiềm tỏa đang muốn trốn chạy một cách điên cuồng ấy là gì thì nàng không thể nói rõ ra.
Reddin ngổi ủ ê cho tới khi Hazel lấy lại được sự hoạt bát và nói:
“Bây giờ tôi đã đến đây, tôi phải ở lại. Ông có nghĩ ông già kia sẽ để tôi nấu chút gì đó cho bữa tối không? Cả ngày hôm nay chúng ta toàn ăn đồ ăn chẳng khác gì cám lợn.”
Nhưng khi đi xem xét tình hình, họ thấy Vessons đang chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn, một bữa ăn nóng sốt và thơm ngon nhất mà một ông già trong tâm trạng hân hoan và đầy ăn năn có thể làm được. Qua thái độ của mình lão chứng tỏ rằng cái gì đã qua thì cho qua, và thế là tối hôm đó ở Undern mọi chuyện diễn ra khá yên bình. Nhưng đó là sự yên bình lạ lùng, âm ỉ những nguy cơ, giống như cảnh trời lặng gió trước cơn bão.
Mọi sắc màu đều rực rỡ đến nỗi chúng trở nên kệch cỡm và gây sửng sốt. Phía trên những cánh đồng đang ngời lên màu xanh mãnh liệt, bầu trời ánh lên tựa như mặt kính màu xanh dương, và trải khắp phía Đông là hai đám mây màu thần sa dài lê thê. Phía sau ngọn đồi xanh sẫm, vầng mặt trời đã nhô lên, chiếu sáng rực rỡ, và cái bóng của Vessons, người đang đứng trên thanh thấp nhất của cánh cổng như một con khỉ, đổ dài trên vạt cỏ ba lá ướt đẫm sương phía sau lão – một hình hài trông như yêu tinh, màu tím, được trời ban cho vẻ đường hoàng dễ nhận thấy. Đám bò cái không xuất hiện ngay sau tiếng gọi đầu tiên của lão. Lão gân cổ lên gọi tiếp bằng giọng cao rầu rĩ của mình, giống như một người đang tranh luận với một đứa trẻ cáu kỉnh. “Vào đi, vào đi!” Rồi lão lại chìm trước quang cảnh choáng ngợp của thiên nhiên. Một lúc sau, một con bò cái mình trắng pha đỏ bóng mượt xuất hiện ở một khoảng cách khá xa, lặng lẽ thong thả đi tới. Từ phía xa xa một con bò trắng và một con bò lang bắt đầu đi theo nó. Chúng đi qua những bóng râm, mỗi con đều đi qua điểm chính giữa của những cánh cổng luôn mở sẵn như cửa dẫn vào một dãy phòng tại một khu vực tiếp tân. Vessons kiên nhẫn chờ đợi – như một kẻ nô lệ hơn là một người điều khiển – chỉ thốt ra những tiếng gọi não nùng “Và…o đi!” thêm một lần duy nhất khi con bò cuối cùng cứ nấn ná mãi với một búi cỏ tươi tốt ở hàng rào. Đây là thủ tục hàng ngày. Sáng nào lão cũng từ trong nhà đi ra cổng và cất tiếng gọi bò trong quang cảnh gần như trống trải; sáng nào lũ bò sữa cũng thơ thẩn tiến vào qua bảy cái cổng từ những bìa rừng đầy lá bí ẩn nơi chúng ngủ qua đêm.
Với ánh mắt bí ẩn, dáng vẻ nhàn nhã, màu lông trắng đỏ sinh động, chúng đi theo ông già đó như những nữ hoàng đi theo người dẫn chỗ.
Hazel đang từ trong nhà đi ra con đường nhỏ. Sáng ra, sức sống dồi dào của nàng lại quay trở lại. Thế giới bên ngoài mới mẻ và tươi sáng, và nàng muốn, với chút bẽn lẽn, thức dậy và thay quần áo trước khi Reddin tỉnh giấc.
Nàng cảm thấy thích thú trước cung cách phục vụ của Vessons đối với những con bò.
“Ông gọi chúng là ‘bà’ chứ?” nàng hỏi.
Vessons nhìn nàng từ đầu đến chân. Lão rất tức giận, không chỉ tức trước lời bình phẩm của nàng, mà còn tức giận trước sự thật rằng lão khó mà cãi lại nàng được, bởi giờ đây nàng đã là “bà chủ”. Sự thân thiện của lão dành cho nàng tất thảy đều đã tan biến, không phải vì tối qua nàng đưa chân đến Undern, mà vì nàng đã làm đám cưới với Edward. Lão cảm thấy nàng đã “đi ngược lại tín ngưỡng độc thân.” Lão từng coi nàng là đồng chí, nhưng bây giờ nàng đã hóa thành kẻ thù. Lão cũng rất bực vì tối qua đã phải thức khuya.
Lão nhấm cọng rơm một lúc, cho tới khi con bò cuối cùng biến mất. Rồi lão nói, “Là một người đàn bà đã có chồng, hay là gì gì đi nữa, cô cũng dậy sớm đấy, cô chủ ạ.”
Hazel bật cười. Nàng đã sống hoàn toàn ở bên ngoài sự ảnh hưởng của những quy tắc xã hội đến nỗi sự châm chọc chẳng khiến nàng mảy may tức giận.
“A ha! Ông đang ghen tị đấy!” nàng nói.
Thế rồi, bắt chước giọng nói và vẻ mặt của lão, nàng nói thêm:
“Bà chủ ở Undern! Không đời nào!”
Lão nao núng trước đôi mắt màu hổ phách đầy chế giễu của nàng, trước tiếng cười tinh quái của nàng. Rồi, hết nhìn bên trái, lại nhìn bên phải với vẻ tức giận bị kìm nén, lão nói, “Lũ chim đang bâu lấy cây anh đào! Tôi phải đi lấy súng mới được. Tôi sẽ bắn chết chúng!”
“Nếu ông bắn một con chim két, sữa sẽ biến thành máu,” Hazel nói; nhưng Vessons chẳng để ý đến những gì nàng nói.
Suốt cả buổi sáng, vào những lúc rảnh rỗi, và sau bữa trưa (bữa ăn mà lão dọn ra trong sự im lặng tuyệt đối, và là bữa ăn dở đến mức không thể chấp nhận được), lão lẻn ra nấp sau những thân cây, bò dọc hàng rào, bắn chim. Ngay cả Reddin cũng cảm thấy e sợ và không thể lấy nổi can đảm để chỉ trích lão. Trong bóng râm lẩn lút, âm u và trang nghiêm của buổi trưa con người già nua lóng ngóng với vẻ mặt bồn chồn và trái tim giận giữ ấy cứ lấp la lấp ló. Lão bắn chim hoét khi chúng đang hót thánh thót sau khi ăn no nê những quả mâm xôi mọc hoang; lão bắn chim hồng tước có bộ lông óng mượt, chim cổ đỏ, chim nhạn – sự linh thiêng của chúng không khiến lão nể sợ - một con chim bồ câu ở trong tổ của nó, những con chim két, những con chim hoét nước, một con chim sẻ cánh vàng và nhiều con sẻ thường. Khu vườn và những cánh đồng, vì lão mà bị đẩy vào im lặng; chỉ còn tiếng đập của những đôi cánh sợ hãi cho thấy lão đang ở góc nào. Lão chất chiến lợi phẩm của mình thành đống – những bộ lông chim đẹp nhất của mùa hè – lên chiếc bàn lấm lem, bê bết máu.
Hazel và Reddin rón rén đi từ ô cửa sổ này sang ô cửa sổ khác, im lặng theo dõi chuyển động của lão. Ấp Undern trở nên ma quái hơn bao giờ hết, khi những tiếng súng vang lên chát chúa trong bầu không khí ắng lặng, giống như một sinh vật đang hấp hối giật người lên vì những cú đấm.
“Lão ấy thích bắn tôi hơn là bắn mấy con chim kia!” Hazel nói. “Hễ tôi đi bất cứ đâu người ta cũng giết chóc các con vật. Tại sao họ lại làm thế?”
“Các con vật phải bị giết.”
“Dường như cả trái đất này đều nhuốm máu,” Hazel nói. “Và luôn là máu của những con vật bé nhỏ. Đấy! Lão ấy bắn chết một con chim hồng tước rồi. Ôi, trời ơi! Chẳng khác nào chính tôi đã giết chúng; chỉ vì tôi đến Undern mà sự thể mới ra nông nỗi này.”
“Im lặng nào!” Reddin gắt. “Tôi chỉ sợ lão sẽ tự bắn chính mình, lão kỳ cục lắm.”
Con bò cuối cùng đã ung dung đi ra cổng trước sau khi Vessons mở cổng ra và vắt sữa cho lũ bò. Sau đó lão xách mấy xô sữa đi vào, đặt chúng trên sàn phòng khách và nói với Hazel bằng giọng tức tối: “Máu đây hử?”
Nàng thừa nhận một cách yếu ớt rằng đó không phải là máu.
“À,” Vessons quay sang Reddin nói, “thông báo thôi việc. Thông báo thôi việc được Adrew Vessons báo trước – báo trước một tháng – cho John Reddin, ông chủ của ấp Undern.”
Với vẻ đĩnh đạc bi thảm lão quay gót.
Lão chẳng thèm để ý Hazel hay Reddin, mà chỉ quan tâm đến con thiên nga được uốn từ cây thủy tùng, tạo tác của lão, giờ đây phải chịu số phận mãi mãi không được hoàn thiện. Các thế hệ đến nơi này sẽ nhìn lên một con thiên nga không có mỏ, và sẽ nghĩ lão chủ bụng tạo ra nó như thế. Lệ dâng trong mắt lão – những giọt lệ đau khổ trào ra một cách khó khăn. Căn phòng ngập đầy nỗi khổ ải. Reddin cảm thấy sững sờ.
“Tại sao, Vessons?” gã nói bằng giọng ngượng ngùng.
Vessons không quay đầu lại. Lão sờ sẫm tìm nắm cửa. Reddin đứng dậy đi ra chỗ lão.
“Tại sao, Vessons?” gã hỏi lại, đặt tay lên vai lão. “Tôi và lão không thể chia lìa được, lão biết mà.”
“Chúng ta buộc phải chia lìa thôi.”
“Nhưng tại sao? Có chuyện gì vậy, Andrew?”
Cái tên thánh hiếm khi được nhắc đến vang lên khiến Vessons mềm lòng. Lão hạ cố giải thích. “Cô ta,” lão nói, hất hàm về phía Hazel, “Cô ta chế giễu tôi.”
“Em đã làm chuyện đó ư, Hazel?”
“Lúc ấy đấy, cô chủ!” Vessons nhìn nàng trừng trừng.
“Tôi chỉ nói…”
“Cô ta nói, ‘Không đời nào!’ “ Vessons gào lên. “Phải, cô ta đã nói thế đấy – ‘Không đời nào!’ cô ta nhại lại lời tôi,” lão nói thêm với niềm kiêu hãnh của kẻ đã sáng tạo ra một cụm từ.
Reddin chẳng thể hiểu được lão cũng chẳng thể hiểu được nàng, một người thì đỏ bừng mặt vì tức giận, một người thì giàn giụa nước mắt.
“Tôi sẽ không đời nào làm theo ý của một người đàn bà!” Vessons nói.
“Nghe này, Vessons! Lão phải biết điều chứ. Nghe tôi nói này. Tôi là ông chủ của lão, đúng không?”
“Đúng! Trong một tháng nữa ông vẫn là ông chủ của tôi.”
“Ồ, lão nghe lệnh của tôi; vấn đề là ở chỗ đó. Ở đây tôi là ông chủ.”
Tiếng nói của dòng họ vang lên trong giọng gã – dòng họ được thống trị và được làm lợi bởi những người đàn ông và những người đàn bà giỏi như họ, hoặc hơn họ.
“Vậy nên chúng ta không phải nói gì thêm về chuyện này nữa,” gã kết thúc, với nụ cười ngay thật và quyến rũ, một trong số ít những nét hấp dẫn ở gã.
Vessons tròn mắt nhìn gã một lát, và, trong khi lão nhìn, một ý nghĩ chợt hiện lên trong đầu lão. Lão cảm thấy đó là một ý hay. Nó sẽ cho phép lão giữ được con thiên nga cũng như lòng tự trọng của lão và cho phép lão tống khứ Hazel. Khi lão nghiền ngẫm ý đó, khuôn mặt lão dần nở một nụ cười. Lão chạm tay vào chõm tóc trước trán mình – một động tác chỉ được thực hiện vào ngày lão nhận tiền công – và rút lui, vừa đi vừa lẩm bẩm, “Thông báo nghỉ việc đã được rút lại.”
Hai người nhìn lão bước đi bên ngoài ô cửa sổ cùng với cái thang và dụng cụ xén tỉa cây, rõ ràng lão đang đến với con thiên nga của lão.
Reddin nghĩ thật dễ dàng để điều khiển những kẻ thấp kém như lão – chỉ cần chút quyền lực, chút xảo thuật mà thôi. Gã quay sang Hazel, giờ đây đang ngồi khóc trên chiếc ghế bành được làm từ gỗ sồi đen với những cái gối tựa bọc vải đỏ bạc phếch. Nàng đang khóc, không phải chỉ vì Vessons đã thắng, mà còn vì vị trí của nàng giờ đây đã được xác định, và đó không phải là vị trí mà nàng thích, và nàng khóc bởi vì thái độ của Reddin đối với nàng đã lại thay đổi sau buổi tối hôm qua.
Tối qua, trong bóng tối đầy khó chịu của Rừng Của Thợ Săn, trong chốc lát gã dường như đã trờ thành người bạn cùng lánh nạn của nàng, một kẻ không có khả năng tự vệ, trốn khỏi một thế lực mơ hồ đáng sợ. Khi đó nàng đã cảm thấy thương cho gã – một cách quên mình, một cách mãnh liệt – đặt đầu gã lên ngực nàng như nàng thường làm với Cáo Nhỏ. Nhưng bây giờ gã dường như đã quên chuyện đó – dường như một lần nữa gã lại thuộc về thế giới của những kẻ tinh ranh, đầy sức mạnh, những kẻ giẫm đạp lên kẻ yếu.
Nàng lại khóc nức nở.
“Nghe này, Hazel,” gã nói, cố khiến cho giọng của mình nghe có vẻ ân cần nhưng hóa ra lại thành cứng rắn – “nghe này: tôi không giận dữ với em, chỉ có điều em phải để Vessons yên, em biết mà.”
“Ông muốn lão già đó hơn tôi!”
“Đừng ngốc thế! Lão có tác dụng của lão; em có tác dụng của em.”
Gã nói với vẻ tàn nhẫn vô thức; gã đã nói lên cái lý thuyết của tầng lớp gã, của đảng phái chính trị của gã, cái lý thuyết dù là ngụ ý hay công khai thì đều đã khẳng định rằng đàn bà, những kẻ nô bộc, và những con vật đều là đối tượng phục vụ lợi ích cho tầng lớp gã.
“Tôi không phải là cỏ để người ta giẫm lên,” Hazel nói, “và nếu ông không thể nói năng lịch sự thì tôi sẽ đi khỏi đây.”
“Em không thể đi,” gã đáp, “không phải bây giờ.”
Nàng biết đó là sự thật, và việc nàng nhận ra rằng bản chất tự nhiên của nàng phản bội lại tự do của nàng càng khiến nàng thêm tức giận.
“Em không thể đi,” gã tiếp tục nói, và bước tới để an ủi nàng. “Để tôi nói cho em biết tại sao nhé?”
Hazel ngồi thẳng người lên, nhìn gã, đôi mắt nàng đượm buồn, vầng trán nàng đỏ ửng sau cơn nức nở. Gã nghĩ nàng đang đợi câu trả lởi của gã; nhưng Hazel hiếm khi nói hoặc làm những gì mà gã phỏng đoán. Nàng để cho gã quỳ một chân bên ghế của nàng; rồi, nàng chau mày hỏi: “Ai đã khóc ở Rừng Của Thợ Săn?” Gã nhảy dựng lên như thể vừa quỳ phải bàn chông. Gã đã và đang cố quên chuyện đó đi, và hi vọng rằng nàng đã quên. Gã xấu hổ một cách cay đắng về cái khoảnh khắc thực sự đẹp đẽ ấy trong cuộc đời mình.
“Đừng nhắc lại chuyện đó nữa, Hazel!” gã nói.
Gã cảm thấy sợ hãi khi nhớ lại hành vi của mình lúc đó. Cảm giác nghi ngờ bản thân rất mạnh mẽ nảy sinh trong đêm đó giờ lại dâng lên trong gã. Con người gã đúng như gã đã nghĩ chăng? Thế giới này đúng như gã đã nghĩ chăng? Cảm giác nghi ngại xâm chiếm gã. Có lẽ gã không được phép đưa Hazel tới đây hoặc tới Rừng Của Thợ Săn. Một chuẩn mực đạo đức lâu đợi hơn cả những chuẩn mực đạo đức của giáo hội và nhà nước bắt đầu bùng lên trước mắt gã, lên án gã.
Bỗng nhiên gã muốn khẳng định chắc chắn một lần nữa. “Em đã thực sự muốn đến đó, đúng không? Tôi đã không lợi dụng em một cách quá đáng, đúng không nào?” gã hỏi. “Em muốn ở lại đây, đúng không?”
“Không, tôi không muốn đến đó cho đến khi ông buộc tôi phải đến. Ông đã lợi dụng tôi. Nhưng có lẽ ông không thể dừng được. Có lẽ ông buộc phải làm thế.”
“Ai đã ép buộc tôi chứ?” gã hỏi, cố làm ra vẻ nghênh ngang.
Đôi mắt Hazel u uẩn và ám ảnh.
“Một cái gì đó rất mạnh và rất đáng sợ đã buộc chúng ta phải làm thế,” nàng nói.
Nàng hình dung thấy toàn thế giới đang chạy vòng quanh một cách điên loạn tựa như con ngựa đã thấm mệt và đầy sợ hãi mà sáng hôm ấy Reddin đã huấn luyện. Nhưng thứ sức mạnh trung tâm đã dễ dàng làm suy sụp tinh thần của con vật bị dây cương kiềm tỏa đang muốn trốn chạy một cách điên cuồng ấy là gì thì nàng không thể nói rõ ra.
Reddin ngổi ủ ê cho tới khi Hazel lấy lại được sự hoạt bát và nói:
“Bây giờ tôi đã đến đây, tôi phải ở lại. Ông có nghĩ ông già kia sẽ để tôi nấu chút gì đó cho bữa tối không? Cả ngày hôm nay chúng ta toàn ăn đồ ăn chẳng khác gì cám lợn.”
Nhưng khi đi xem xét tình hình, họ thấy Vessons đang chuẩn bị một bữa ăn thịnh soạn, một bữa ăn nóng sốt và thơm ngon nhất mà một ông già trong tâm trạng hân hoan và đầy ăn năn có thể làm được. Qua thái độ của mình lão chứng tỏ rằng cái gì đã qua thì cho qua, và thế là tối hôm đó ở Undern mọi chuyện diễn ra khá yên bình. Nhưng đó là sự yên bình lạ lùng, âm ỉ những nguy cơ, giống như cảnh trời lặng gió trước cơn bão.