Chương : 8
Những tia sáng yếu ớt nhất của buổi sớm mai len lỏi qua lớp rèm ren che ô cửa sổ nhỏ xíu trên đầu Blue. Thức dậy bây giờ thì quá sớm, nhưng cô đã dại dột uống một cốc nước thật to trước khi lên giường, và cái nhà xe gipsy này, dù rất mê hoặc ấm cúng, lại chẳng có nhà vệ sinh. Blue chưa bao giờ ngủ ở một nơi lạ lùng như thế này. Giống như thể ngủ thiếp đi trong một câu chuyện cổ tích mà kết thúc là một chàng hoàng tử gipsy tóc vàng hoang dã khiêu vũ với cô quanh đống lửa trại vậy.
Cô không tin được mình lại mơ về anh. Thì đúng, Dean chính xác là loại đàn ông khơi nguồn cho những giấc mơ táo bạo của phái nữ, nhưng không phải từ một kẻ thực tế như cô. Kể từ sáng hôm qua, cô đã quá để ý đến anh theo mọi chiều hướng sai lầm, và cô cần phải dẹp bỏ ngay chuyện đó.
Sàn gỗ trần của nhà xe lạnh ngắt dưới chân cô. Cô đã ngủ trong chiếc áo phông có dòng chữ BODY BY BEER và chiếc quần tập yoga nhuộm loang tím sẫm vốn chưa hề được nhìn thấy một lớp yoga nào nhưng lại siêu thoải mái. Xỏ chân vào đôi dép xỏ ngón, cô bước ra ngoài trời lạnh se se. Chỉ có bài hát chào bình minh của các chú chim là phá vỡ sự yên tĩnh - chẳng có tiếng thùng rác loảng xoảng, tiếng còi báo động hú vang, hay tiếng rít cảnh báo từ mấy cái xe tải đang lùi. Cô đi về phía nhà chính và lách vào từ cửa bên hông. Trong ánh sáng sớm mai, những cái tủ bếp màu trắng và đám tay cầm đỏ tươi phản chiếu lại trên mặt quầy đá mới.
Don’t sit under the apple tree...
Tối qua trước khi ra ngoài Dean đã lại phủ ni lông đen lên cửa nhà vệ sinh, cô bèn đi thẳng về phía nhà vệ sinh tầng trệt có một phần khuất bên dưới cầu thang. Giống như mọi thứ khác trong ngôi nhà, phòng này được thiết kế dành cho anh, với một cái bồn cao và trần nhà được nâng lên một phần để tương thích với chiều cao của anh. Blue tự hỏi không biết anh có nhận thấy mẹ anh đã tỉ mỉ làm mọi thứ cho anh thế nào không. Hay có thể bà chỉ làm như anh yêu cầu.
Trong lúc cà phê vẫn còn đang ủ trong bình, cô phát hiện ra mấy cái tô từ đống hộp đựng đồ dùng nhà bếp mới đang chờ được dỡ ra sau khi sơn xong nhà bếp. Đám đĩa sạch đặt trên mặt quầy mới tinh nhắc cô nhớ đến bữa ăn của cô cùng với April tối qua. Dean đã cáo lỗi, bảo là anh có việc phải làm. Blue cá là việc đó có liên quan đến mấy nàng tóc vàng, tóc hạt dẻ và tóc đỏ. Cô mở cửa tủ lạnh lấy sữa thì thấy anh đã khoét một mảng lớn trong phần tôm Creole còn thừa. Từ phần còn lại quá ít trên đĩa mà nói, hẳn là trò hoan lạc nọ đã kích động chứng thèm ăn trong anh.
Cô khoát nước trong bồn để rửa mấy cái đĩa dành cho bữa sáng. Đám tô trắng có những sọc đỏ quanh mép, còn đám cốc thì được sơn một chùm sơ ri đỏ tươi. Cô rót cà phê ra, thêm sữa, rồi lững thững bước ra khỏi nhà. Khi đi đến phòng ăn, cô dừng lại ở ngưỡng cửa. Tối qua April đã bảo cô là bà đang tính thuê người vẽ vài bức tranh phong cảnh trên tường phòng này và hỏi Blue có làm công việc kiểu đó không. Blue bảo không, điều đó không hoàn toàn đúng. Cô đã vẽ khá nhiều tranh tường - vật nuôi trên tường sân chơi, logo kinh doanh ở các văn phòng, thơ Kinh Thánh theo từng sự kiện trên tường nhà bếp - nhưng cô không vẽ phong cảnh. Các giáo sư đại học đã gây cho cô quá nhiều đau đớn về những bức tranh cô vẽ cho các lớp học của mình, và cô ghét bất kỳ điều gì khiến mình cảm thấy kém cỏi.
Cô đi ra cửa trước, nhấm nháp cà phê và thong thả bước về phía bậc thềm để thưởng thức sương mù xoáy tít trong các chỗ trũng. Khi quay sang nhìn một đàn chim đậu trên nóc nhà kho, cô giật mình làm cà phê đổ ra cổ tay. Một đứa trẻ đang cuộn người ở góc thềm ngủ say sưa.
Con bé trông xấp xỉ mười ba tuổi, nhưng vẫn chưa mất đi vẻ mũm mĩm trẻ con nên có thể là nhỏ tuổi hơn. Nó mặc cái áo khoác hồng bẩn thỉu có logo hãng Juicy và quần nhung kẻ màu tím đầy bùn có vết rách hình chữ V ở đầu gối. Blue đưa cổ tay lên miệng liếm chỗ cà phê đổ ra. Mái tóc nâu xoăn tít, bù xù của đứa trẻ xõa xượi trên một bên má đầy đặn, lem luốc. Nó ngủ ở tư thế kỳ cục, lưng tì vào cái ba lô xanh sẫm mà nó đã đẩy vào góc thềm. Con bé có làn da màu ô liu săn chắc, hàng lông mày rậm đen sì và cái mũi thẳng mà cô không thường thấy. Bộ móng tay sơn màu xanh bóng loáng bị cắn trụi lủi. Nhưng dù bẩn thỉu, quần áo của con bé trông rất đắt tiền, cả đôi giày thể thao cũng vậy. Đứa trẻ này phủ lên mình dòng chữ THÀNH PHỐ LỚN, nghĩa là thêm một người lang thang nữa đã xuất hiện ở trang trại nhà Dean.
Blue đặt tách cà phê xuống và bước đến cạnh đứa trẻ. Cúi người xuống, cô nhẹ nhàng chạm vào cánh tay nó. “Này nhóc,” cô khẽ gọi.
Con bé nhảy dựng lên, mắt mở choàng ra. Đôi mắt nâu ấm áp màu đường caramen.
“Không sao đâu,” Blue nói, cố xoa dịu nỗi hoảng hốt mà cô thấy ở đứa bé. “Chào em.”
Đứa trẻ cố sức ngồi dậy, chất giọng ngái ngủ lào khào làm âm điệu miền Nam nhẹ nhàng trầm hơn. “Em... em không làm hư hại cái gì hết.”
“Cũng chẳng làm hư hại được nhiều thứ ở đây đâu.”
Con bé cố gạt tóc ra khỏi mắt. “Lẽ ra em không... nên ngủ quên.”
“Em đã không chọn được cái giường êm ái cho lắm.” Con bé trông khá nhút nhát, Blue chưa thể cật vấn nó bây giờ. “Em có muốn ăn gì đó không?”
Răng cửa trên của con bé cắm xuống môi dưới. Hàm răng thật thẳng, nhưng vẫn hơi to so với mặt của nó. “Có chị ạ. Nếu được.”
“Chị cứ hy vọng có người xuất hiện để bầu bạn cùng. Chị là Blue.”
Đứa trẻ loạng choạng đứng dậy nhặt ba lô. “Em là Riley. Chị là người giúp việc à?”
Rõ ràng con bé này đến từ tầng lớp thượng lưu. “Giúp đỡ hay cản trở,” Blue trả lời. “Điều đó còn tùy thuộc vào tâm trạng của chị.”
Riley còn quá nhỏ để có thể nhận thức được sự láu cá của người lớn. “Có... ai ở đây không?”
“Có chị.” Blue mở cửa trước và ra hiệu cho Riley bước vào.
Vào đến nhà, Riley liền nhìn quanh. Giọng nó run run thất vọng. “Nhà vẫn chưa làm xong. Chẳng có đồ đạc gì cả.”
“Một chút thôi. Gian bếp gần xong rồi.”
“Thế... giờ chẳng có ai sống ở đây à?”
Blue quyết định lẳng tránh câu hỏi cho đến khi cô tìm hiểu ra đứa trẻ này có âm mưu gì. “Chị đói quá. Em thì sao? Em thích ăn trứng hay ngũ cốc?”
“Ngũ cốc ạ.” Riley lệt xệt lê gót theo cô qua hành lang đến nhà bếp.
“Nhà vệ sinh ngay ở kia. Nó vẫn chưa có cửa, nhưng phải một lúc nữa thợ sơn mới đến, nên nếu em muốn rửa ráy thì chẳng ai làm phiền em đâu.”
Đứa trẻ nhìn quanh nhà, liếc về phía phòng ăn rồi đến cầu thang, đoạn nó cùng cái ba lô hướng thẳng về phía nhà vệ sinh.
Blue đã để số thực phẩm bảo quản trong bao cho đến khi đám thợ sơn xong việc. Cô vào kho thực phẩm lục ra mấy hộp ngũ cốc. Đến lúc Riley quay lại, kéo theo ba lô và cái áo khoác phía sau, Blue đã dọn xong mọi thứ ra bàn, gồm cả một bình con bò nhỏ chứa đầy sữa. “Chọn đồ của em đi.”
Riley đổ ngũ cốc và ba thìa đường vào tô cho mình. Con bé đã rửa mặt và tay, vài lọn tóc xoăn dính bết vào trán nó. Cái quần nhung kẻ màu tím quá chật, áo phông trắng có chữ FOXY[1] màu tía lấp lánh cắt ngang cũng vậy. Blue không thể nghĩ ra từ nào ít phù hợp hơn để miêu tả đứa trẻ nghiêm nghị này.
[1] Foxy: láu cá, xảo quyệt.
Cô chiên một quả trứng cho mình, làm một miếng bánh mì và mang đĩa ra bàn. Cô chờ đến khi đứa trẻ đã giải quyết phần đói khát tồi tệ nhất rồi mới bắt đầu thăm dò. “Chị ba mươi tuổi. Còn em?”
“Mười một.”
“Thế là hơi nhỏ để có thể sống một mình.”
Riley đặt thìa xuống. “Em đang tìm... một người. Đại loại là người thân. Không... không phải anh trai hay gì đâu,” con bé nói thật nhanh. “Chỉ... có lẽ giống như anh họ. Em... em tưởng có thể anh ấy ở đây.”
Ngay lúc đó cửa sau mở ra, vòng tay kêu leng keng, và April bước vào. “Chúng ta có khách đấy,” Blue nói. “Xem sáng nay cháu tìm thấy ai đang ngủ trên thềm này. Đây là bạn cháu, Riley.”
April ngẩng đầu lên, một cái vòng đeo tai lớn bằng bạc lộ ra qua mái tóc. “Trên thềm á?”
Blue bỏ quên miếng bánh mì. “Con bé đang cố tìm một người họ hàng.”
“Hội thợ mộc sẽ đến sớm thôi.” April mỉm cười với Riley. “Hay họ hàng của cháu là thợ sơn?”
“Cháu... họ hàng của cháu không làm việc ở đây,” Riley lẩm bẩm. “Anh ấy... lẽ ra anh ấy sống ở đây.”
Đầu gối Blue va vào chân bàn. Nụ cười của April nhạt đi. “Sống ở đây?”
Đứa bé gật đầu.
“Riley à?” Những ngón tay của April siết lại quanh mép quầy bếp. “Cho ta biết họ của cháu.”
Riley cúi gằm đầu trên tô ngũ cốc. “Cháu không muốn nói với bác.”
Da April thoắt tái nhợt. “Cháu là con của Jack, đúng không? Con của Jack và Marli?”
Blue suýt chết nghẹn. Nghi ngờ mối liên hệ giữa Dean và Jack Patriot là một chuyện, nhưng khi điều đó được khẳng định lại là chuyện khác. Riley là con gái của Jack Patriot, và bất chấp nỗ lực vụng về của con bé nhằm che giấu điều đó, người họ hàng mà nó đang tìm chỉ có thể là Dean.
Riley giật một lọn tóc, kéo nó qua mặt trong lúc nhìn chòng chọc vào tô ngũ cốc. “Bác biết cháu à?”
“Ta... Phải,” April nói. “Làm sao cháu đến được đây? Cháu sống ở Nashville cơ mà.”
“Đại loại là cháu đi nhờ ô tô. Với một người bạn của mẹ cháu. Cô ấy ba mươi tuổi.”
April không tin vào lời nói dối trắng trợn của nó. “Ta rất tiếc về chuyện của mẹ cháu. Bố cháu có biết cháu...” Vẻ mặt April trở nên khắc nghiệt. “Dĩ nhiên ông ta không biết. Ông ta không hề biết gì, đúng không?”
“Hầu hết thời gian thì không. Nhưng bố rất tốt.”
“Tốt à...” April xoa trán. “Ai là người phải chăm sóc cháu?”
“Cháu có một aupair.”
April với cuốn sổ tối qua bà đã đặt trên mắt quầy. “Đưa ta số điện thoại của cô ấy để ta gọi điện.”
“Chắc chị ấy chưa dậy đâu.”
April nhìn thẳng vào con bé. “Ta chắc chắn nó sẽ không phiền khi bị ta đánh thức.”
Riley quay đi. “Bác có thể cho cháu biết... Có người nào... Liệu có khi nào... anh họ của cháu sống ở đây không? Vì chuyện tìm anh ấy đối với cháu rất quan trọng.”
“Vì sao?” Giọng April rít lại. “Vì sao cháu cần phải tìm người đó?”
“Bởi vì...” Riley nuốt khan. “Bởi vì cháu cần cho anh ấy biết về cháu.”
April run rẩy hít vào. Bà nhìn trân trân vào quyển sổ. “Chuyện này sẽ không diễn ra như cháu muốn được đâu.”
Riley nhìn bà chòng chọc. “Bác biết anh ấy ở đâu, đúng không?”
“Không. Không, ta không biết,” April vội nói. Bà nhìn Blue, lúc này vẫn đang cố tiếp nhận những gì vừa nghe thấy. Dean chẳng giống Jack Patriot chút nào, nhưng Riley thì có. Họ cùng có làn da màu ô liu, mái tóc nâu vàng và sống mũi thẳng. Đôi mắt như đường caramen viền săm đó đã nhìn cô chòng chọc từ vô số bìa album rồi.
“Trong khi Riley và cô nói chuyện,” April nói với Blue, “Cháu có thể lo liệu việc ở tầng trên được không?”
Blue nhận ra ngay thông điệp. Cô phải giữ Dean tránh xa nơi này. Khi còn nhỏ, cô đã cảm thấy nỗi đau vì không được cho biết những bí mật, và cô không cho rằng việc ngăn trẻ con biết sự thật là đúng. Cô đẩy ghế ra khỏi bàn, nhưng trước khi cô kịp đứng lên thì tiếng bước chân vững chắc đã đến gần trong hành lang.
April nắm tay Riley. “Chúng ta ra ngoài nói chuyện.”
Đã quá muộn.
“Tôi ngửi thấy mùi cà phê.” Dean bước vào, mới tắm xong và chưa cạo râu, một mẫu quảng cáo trên tạp chí GQ rất phong cách nhưng cũng rất bình dị trong chiếc quần lửng ngắn màu xanh, áo phông lưới màu vàng nhạt in logo của Nike và đôi giày thể thao công nghệ cao màu xanh cốm có dáng thuôn như dáng xe đua. Nhìn thấy Riley, anh mỉm cười. “Chào.”
Riley ngồi hóa đá, trân trân nhìn anh. April ấn một tay lên eo, như thể bà đang đau bụng. Miệng Riley khẽ há ra. Cuối cùng, con bé cũng cất lời được. “Em là Riley.” Giọng nó lạo xạo như tiếng xé giấy.
“Chào Riley. Anh là Dean.”
“Em biết,” nó nói. “Em... em có một quyển ảnh lưu niệm.”
“Thật à? Ảnh lưu niệm kiểu gì?”
“V... về anh.”
“Không đùa chứ?” Anh hướng về phía bình cà phê. “Vậy em hâm mộ bóng bầu dục à.”
“Đại loại em là...” Con bé liếm môi khô khốc. “Đại loại thì em... có lẽ là em họ của anh hay gì đó.”
Đầu Dean ngẩng lên. “Anh làm gì có...”
“Riley là con gái của Marli Moffatt,” giọng April lạnh băng.
Riley tập trung hoàn toàn vào anh. “Jack Patriot... đại loại cũng là bố em.”
Dean nhìn con bé trừng trừng.
Mặt Riley đỏ lên vì kích động. “Em không định nói thế!” nó kêu lên. “Em chưa bao giờ nói với ai về anh. Em thề đấy.”
Dean đứng như hóa đá. April dường như không thể cựa quậy. Đôi mắt đau khổ của Riley giàn giụa nước mắt. Blue không chịu được khi phải chứng kiến nỗi đau nhường ấy, cô bèn đứng dậy. “Dean vừa mới lăn ra khỏi giường thôi, Riley. Hãy cho anh ấy vài phút để anh ấy tỉnh hẳn đã.”
Ánh mắt Dean rời sang phía mẹ anh. “Con bé đang làm gì ở đây?”
April lùi lại tựa vào bếp lò. “Cố tìm con, mẹ đoán vậy.”
Blue có thể thấy cuộc gặp mặt này không diễn ra theo cách mà Riley đã tưởng tượng. Nước mắt ngập hai hàng mi đứa bé. “Em xin lỗi. Em sẽ không bao giờ nói gì nữa.”
Dean là người lớn, và anh cần phải có trách nhiệm, nhưng anh cứ đứng im lặng và cứng đơ. Blue vòng qua bàn đến chỗ Riley. “Có người vẫn chưa được uống cà phê, và điều đó khiến anh ta thành một chú gấu cáu bẳn. Trong khi chờ Dean tỉnh đậy, chị sẽ chỉ cho em nơi chị ngủ tối qua. Em sẽ không tin được đâu.”
Khi Blue mười một, cô hẳn sẽ thách thức bất kỳ ai cố ngăn cản mình, nhưng Riley quen với việc mù quáng vâng lời hơn. Con bé cúi gằm mặt miễn cưỡng nhặt ba lô lên. Đứa trẻ này là một nỗi đau biết đi, và trái tim Blue thắt lại vì thương cảm. Cô choàng một tay quanh vai Riley dẫn nó về phía cửa bên hông. “Trước hết, em phải cho chị biết em biết gì về gipsy đã.”
“Em chẳng biết gì,” Riley lầm bầm.
“May làm sao, chị thì có biết.”
Dean chờ cánh cửa đóng lại. Trong vòng chưa đến hai mươi tư giờ, hai người đã đối chất với anh về cái bí mật mà anh đã có thể giấu kín suốt bao nhiêu năm qua. Anh quay sang April. “Chuyện quái gì đang xảy ra thế? Bà có biết gì không?”
“Dĩ nhiên mẹ không biết,” April đáp trả. “Blue tìm thấy con bé đang ngủ gục trên thềm. Hẳn là nó đã bỏ đi khỏi nhà. Rõ ràng chỉ có mỗi một đứa aupair trông nom nó.”
“Bà đang bảo tôi là cái gã khốn nạn ích kỷ đó để con bé có một mình chưa đến hai tuần sau khi mẹ nó qua đời đấy à?”
“Làm sao mẹ biết được? Ba mươi năm rồi mẹ có nói chuyện trực tiếp với ông ta đâu.”
“Mẹ kiếp, không thể tin được.” Anh xỉa ngón tay về phía bà. “Bà tìm ông ta ngay lập tức và bảo ông ta cử một tên đầy tớ đến đây ngay trong sáng nay để đón con bé.” April không thích bị sai bảo, và quai hàm bà siết lại. Quá tệ. Anh quay về phía cửa. “Tôi sẽ nói chuyện với con bé.”
“Đừng.” Vẻ dữ dội của bà khiến anh dừng lại. “Con đã thấy nó nhìn con thế nào rồi đấy. Thật dễ dàng biết là nó muốn gì. Tránh xa ra đi, Dean. Để nó nuôi hy vọng thì nhẫn tâm quá. Blue và mẹ sẽ xử lý chuyện này. Đừng làm bất kỳ điều gì khiến nó gắn bó nếu con không định tìm hiểu rõ vấn đề.”
Anh không giấu được vẻ cay đắng. “Trường nuôi dạy trẻ April Robillard. Sao tôi có thể quên được nhỉ.”
Mẹ anh có thể trở thành kể cứng đầu thực sự khi muốn, và bà hất cằm lên. “Hóa ra con giờ cũng ổn đấy chứ.”
Anh ném cho bà ánh mắt ghê tởm rồi ra ngoài theo cửa bên hông. Nhưng được nửa đường băng qua sân thì anh đi chậm lại. Mẹ anh nói đúng. Đôi mắt cầu xin của Riley cho biết con bé muốn có từ anh mọi thứ mà nó không thể có được từ bố nó. Sự kiện Jack bỏ rơi đứa trẻ sớm như vậy ngay sau đám tang của mẹ nó đã đánh vần tương lai của con bé với những ký tự in hoa - một ngôi trường nội trú đắt tiền và những kỳ nghỉ cùng với hàng đàn những bảo mẫu ăn diện.
Con bé vẫn còn khá hơn anh. Các kỳ nghỉ của anh đã diễn ra trong những căn villa hoa lệ, những khách sạn tồi tàn, hay những căn hộ xơ xác, phụ thuộc vào nơi mà April sẽ ở với đám đàn ông và những cơn nghiện của bà. Trong suốt thời gian đó, anh được mời chào mọi thứ từ cần sa, bia rượu đến gái điếm và dần dần đã chấp nhận tất cả. Công bằng mà nói, April chẳng biết hầu hết những chuyện đó, nhưng lẽ ra bà phải biết. Lẽ ra bà phải biết rất nhiều thứ.
Giờ Riley đã chạy theo anh, và trừ phi anh hoàn toàn hiểu sai vẻ khao khát trên mặt con bé, thì nó muốn anh trở thành gia đình của nó. Nhưng anh không thể làm thế. Anh đã giữ bí mật mối quan hệ giữa anh và Jack Patriot quá lâu rồi, giờ không thể nào thổi tung lên được. Phải, anh thấy tội nghiệp con bé, và anh hy vọng chết đi được là mọi việc sẽ ổn hơn, nhưng chỉ được đến thế mà thôi. Con bé là vấn đề của Jack, không phải của anh.
Anh chui vào trong nhà xe gipsy. Blue và Riley ngồi trên chiếc giường màu đen vẫn chưa dọn dẹp. Blue vẫn là thảm họa thời trang thường thấy, gương mặt nhọn trong bài hát ru trông kỳ quặc với cái quần nhuộm loang màu tím hẳn phải là ý tưởng trêu đùa của ai đó, và cái áo phông màu cam đủ to để chứa cả một rạp xiếc. Đứa trẻ ngước lên nhìn anh, một trời đau khổ khắc trên gương mặt tròn trịa nhỏ xíu của nó. Quần áo của nó quá chật, quá kiểu cách, và dòng chữ FOXY trên áo phông của nó trông thật ghê tởm trên bộ ngực mới nhú. Nó sẽ chẳng tin anh nếu anh cố thuyết phục là nó đã nhầm về mối quan hệ giữa anh và Jack.
Việc thấy quá nhiều khẩn nài tuyệt vọng trên gương mặt Riley lại gợi về quá nhiều ký ức tồi tệ, và giọng anh thốt lên cay nghiệt hơn dự tính. “Làm sao em biết về anh?”
Con bé liếc nhìn Blue, sợ sẽ tiết lộ nhiều hơn những gì nó đã trót tiết lộ. Blue vỗ lên đầu gối Riley. “Không sao đâu.”
Đứa trẻ chòng chọc lên đường sọc nổi màu oải hương trên chiếc quần nhung kẻ của nó. “Năm ngoái bạn trai của... của mẹ em kể với mẹ về anh. Đại loại là em nghe thấy họ nói chuyện. Ông ta từng làm việc cho bố. Nhưng ông ta bắt mẹ thề là không được nói với ai, kể cả dì Gayle.”
Anh chống tay lên sườn xe. “Anh ngạc nhiên vì mẹ em lại biết cái trang trại này đấy.”
“Em không nghĩ là mẹ biết. Em đã nghe bố nói chuyện điện thoại với ai đó về nơi này.”
Có vẻ như Riley nghe lỏm được nhiều thứ. Dean tự hỏi làm thế nào bố anh lại biết được chuyện trang trại. “Đưa anh số điện thoại của em,” anh nói, “Để anh gọi về nhà em bảo với họ là em không sao.”
“Chỉ có mỗi Ava thôi, và chị ấy không thích bị điện thoại đánh thức quá sớm. Chuyện đó khiến Peter nổi giận.” Riley cạy lớp sơn xanh trên móng tay cái. “Peter là bạn trai của Ava.”
“Vậy Ava là aupair của em hả?” anh nói. Giỏi lắm đấy, Jack.
Riley gật đầu. “Chị ấy khá tốt.”
“Và thạo việc đến không ngờ,” Blue dài giọng.
“Em không hề nói với ai về... anh biết đấy,” con bé nói vẻ thật thà. “Em biết đây là bí mật động trời. Và em nghĩ là mẹ cũng không nói với ai.”
Bí mật. Những năm đầu đời Dean đã tin rằng Bruce Springsteen là bố anh. April thậm chí còn sáng tác ra một câu chuyện phức tạp về chuyện Bruce viết bài “Candy’s Room” về bà. Nhưng đó hoàn toàn chỉ là ý nghĩ thèm muốn. Khi Dean lên mười ba và April đang phê thứ-chỉ-có-Chúa-mới-biết, bà đã buột ra sự thật, và cái thế giới vốn vẫn hỗn độn của anh đã lật ngược.
Cuối cùng, anh cũng tìm được tên luật sư của Jack trong đám đồ của April, cùng với một bộ sưu tập ảnh hồi April và Jack còn bên nhau và những bằng chứng về số tiền hỗ trợ mà Jack đã chi ra. Anh đã gọi tay luật sư nọ mà không cho April biết. Gã đó đã cố ngăn chặn anh, nhưng Dean hồi đó cũng đã ngang bướng như lúc này, và cuối cùng, Jack đã gọi cho anh. Đó là một cuộc nói chuyện ngắn ngủi, không thoải mái. Khi April phát hiện ra, bà đã say xỉn suốt một tuần liền.
Dean và Jack đã gặp nhau lần đầu tiên, một cuộc gặp bí mật, đầy gượng gạo trong một bungalow ở khách sạn Chateau Marmont, trong chuyến lưu diễn Mud & Mandness tại L.A. Jack đã cố cư xử như người bạn thân thiết của Dean, nhưng Dean không tin điều đó. Sau đó, Jack cứ đòi được gặp anh vài lần một năm, và mỗi lần đến thăm bí mật lại càng đau khổ hơn lần trước đó. Lúc lên mười sáu, Dean đã nổi dậy chống đối.
Jack để yên cho Dean đến lúc anh học năm thứ hai Đại học Nam California khi gương mặt anh bắt đầu xuất hiện trên tờ Sports Illustrated. Jack lại tiếp tục gọi điện, nhưng Dean đã cho ông ra rìa. Tuy vậy, thi thoảng Jack vẫn theo anh đến sân đấu, và đôi khi Dean vẫn nghe nói là người ta thấy Jack Patriot xuất hiện trong một trận đấu của Chicago Stars.
Anh quay về việc chính. “Anh cần số điện thoại, Riley.”
“Em... quên mất rồi.”
“Em quên mất số điện thoại của mình á?”
Con bé gật đầu hơi nhanh.
“Anh thấy em là một đứa trẻ trông khá thông minh.”
“Em thông minh mà... nhưng...” Con bé nuốt vào. “Em biết rất nhiều về bóng bầu dục. Năm ngoái, anh đã ném ba trăm bốn mươi sáu cú chuyền, chỉ bị cướp bóng có mười hai lần, và anh có mười bảy cú ném bị chặn.”
Dean thường yêu cầu mọi người không được dùng từ “bị chặn” khi có mặt anh, nhưng anh không muốn kích động con bé hơn mức cần thiết. “Anh ấn tượng đấy. Thật thú vị khi em có thể nhớ tất cả những thứ đó mà lại không nhớ được số điện thoại của mình.”
Con bé kéo ba lô lên đùi. “Em có thứ này cho anh. Em tự làm đấy.” Nó mở khóa lấy ra một cuốn sổ ảnh lưu niệm màu xanh. Ruột anh thắt lại khi anh nhìn xuống tờ bìa, được trang trí thủ công một cách cẩn thận. Sử dụng sơn phun và bút đánh dấu, con bé đã vẽ cái logo màu xanh-vàng của Stars và một số 10 đầy trau chuốt, là số áo của anh. Những trái tim có cánh và biểu ngữ có chữ “Boo” trang trí viền bìa. Anh mừng khi Blue lên tiếng vì anh không thể nghĩ ra cái quái gì mà nói lúc này.
“Đúng là một sản phẩm nghệ thuật khá đẹp.”
“Của Trinity còn đẹp hơn cơ,” Riley nói. “Nó gọn gàng lắm.”
“Gọn gàng không có ý nghĩa nhiều lắm trong nghệ thuật,” Blue nói.
“Mẹ em bảo gọn gàng là quan trọng. Đúng hơn là... mẹ đã nói thế.”
“Chị rất tiếc về chuyện của mẹ em,” Blue lặng lẽ nói. “Đây thực sự là khoảng thời gian khó khăn đối với em, đúng không?”
Riley xoa xoa một hình trái tim phồng trên bìa sổ lưu niệm. “Trinity là em họ của em. Nó cũng mười một tuổi và rất xinh xắn. Dì Gayle là mẹ nó.”
“Anh cá là Trinity sẽ lo lắng khi phát hiện ra em biến mất,” anh nói.
“Ồ, không đâu,” con bé đáp lại. “Trinity sẽ mừng lắm. Nó ghét em. Nó nghĩ em là đứa lập dị.”
“Thế có đúng không?” Blue hỏi.
Anh không hiểu sao lại phải xoáy vào chuyện đó, nhưng Blue phớt lờ ánh mắt coi thường của anh.
“Em đoán vậy,” Riley nói.
Blue tươi rói. “Chị cũng thế. Không phải thế thật ngầu sao? Chỉ có những kẻ lập dị mới thực sự thú vị, em không nghĩ vậy sao? Những kẻ khác thật buồn tẻ. Ví dụ như Trinity ấy. Con bé ấy có thể xinh xắn, nhưng nó buồn tẻ, đúng không?”
Riley chớp mắt. “Đúng đấy. Tất cả những gì nó muốn nói đến là lũ con trai.”
“Ọe.” Mặt Blue nhăn nhúm lại hơn mức cần thiết.
“Hoặc quần áo.”
“Ọe phát nữa.”
“Xem ai đang nói kìa,” anh lẩm bẩm.
Nhưng Riley đã quay hẳn sang phía Blue. “Hoặc nôn mửa để không bị béo.”
“Chắc em đang đùa với chị.” Blue nhăn nhăn sống mũi nhỏ và nhọn. “Làm sao nó biết chuyện đó.”
“Chuyện nôn ọe thực sự quan trọng với dì Gayle.”
“Hiểu rồi.” Blue liếc vội sang Dean. “Vậy chị đoán là dì Gayle cũng khá buồn tẻ.”
“Toàn tập luôn. Cứ thấy em là dì lại bảo ‘ôm nào ôm nào’ và bắt em hôn dì, nhưng đó chỉ là giả thôi. Dì cũng nghĩ em là đứa lập dị béo phì.” Riley giật giật gấu áo bông, cố kéo nó qua chỗ thịt lồi ra phía trên cạp quần.
“Chị thấy thương hại những người như thế,” Blue nói vẻ chân thành. “Những người cứ luôn phán xét. Mẹ chị, một người cực kỳ cực kỳ quyền lực, đã dạy chị rằng người ta không thể làm được những việc phi thường trên đời nếu cứ mất thời gian chỉ trích người khác vì họ không có vẻ ngoài hay cư xử theo cái cách mà mình nghĩ họ nên thế.”
“Mẹ chị còn... còn sống chứ?”
“Ừ. Mẹ chị đang ở Nam Mỹ giúp bảo vệ những cô gái khỏi bị đau đớn.” Vẻ mặt Blue trở nên u ám.
“Công việc đó nghe không có vẻ gì buồn tẻ,” Riley nói.
“Mẹ chị là một phụ nữ tuyệt vời.”
Một phụ nữ tuyệt vời, Dean nghĩ, người đã bỏ rơi đứa con duy nhất cho người lạ nuôi nấng. Nhưng ít ra Virginia Bailey cũng không có những đêm phê thuốc và lang chạ với lũ ngôi sao nhạc rock.
Blue đứng dậy bước vòng qua anh để lấy cái điện thoại di động của cô trên bàn. “Chị cần em giúp chị làm một chuyện, Riley. Chị có thể thấy là em không muốn cho anh Dean biết số điện thoại của em, và giữ bí mật riêng tư ở mức độ nào đó là hợp lý. Nhưng em phải gọi cho Ava bảo với chị ấy là em không sao.” Cô chìa điện thoại ra cho con bé.
Riley nhìn chòng chọc cái điện thoại nhưng không cầm.
“Làm đi nào.” Blue trông có thể giống một kẻ trốn thoát ra từ Vương quốc Ma thuật, nhưng cô cũng có thể là một sĩ quan huấn luyện nếu muốn, và Dean chẳng ngạc nhiên khi thấy Riley cầm điện thoại bấm số.
Blue ngồi cạnh con bé. Vài giây trôi qua. “Chào Ava, là em, Riley đây. Em không sao. Em đang ở với người lớn, thế nên chị không phải lo cho em đâu. Gửi lời chào đến Peter nhé.” Con bé tắt máy trả điện thoại lại cho Blue. Đôi mắt của nó, một biển khẩn nài không đáy, quay lại với Dean. “Anh có... thích xem sổ lưu niệm của em không?”
Anh không muốn làm tổn thương đến đứa trẻ mỏng manh này bằng cách nuôi dưỡng những hy vọng không thật. “Để sau cũng được,” anh trả lời cộc cằn. “Anh có việc phải làm.” Rồi anh nhìn sang Blue. “Ôm một cái trước khi anh đi nào, em yêu.”
Cô đứng dậy, kể từ khi anh gặp cô đây là lần đầu tiên cô thuận theo. Sự xuất hiện của Riley đã ngăn cản anh trong kế hoạch xử lý sự dối trá của cô về April, nhưng chỉ tạm thời thôi. Anh bước ra chính giữa nhà xe để không bị va đầu. Cô choàng tay quanh eo anh. Anh đang tính sờ mó một chút, nhưng hẳn đã đọc được tâm trí anh, cô véo anh thật mạnh qua lớp áo phông. “Oái.”
Cô vừa ngẩng lên mỉm cười với anh vừa lùi lại. “Nhớ em đấy, anh chàng đẹp trai.”
Anh trừng mắt nhìn cô, xoa xoa bên sườn rồi rời khỏi nhà xe.
Ngay khi đã ra khỏi tầm mắt, anh liền thò tay vào túi quần sau lôi cái điện thoại mà cô đã chuyển cho anh ra. Anh lướt qua các danh mục, gọi lại cuộc gọi cuối cùng, và nhận được tiếng trả lời tự động của một công ty bảo hiểm ở Chattanooga.
Đứa trẻ này không ngốc chút nào.
Nhân tiện có điện thoại của Blue trong tay, anh lướt qua lịch sử cuộc gọi cho đến khi tìm thấy ngày mà anh cần. Anh gọi vào hộp thư thoại của cô và nhập mật khẩu mà anh đã thấy cô dùng vài ngày trước. Cô không có thói quen xóa hộp thư thoại của mình, và anh lắng nghe lời nhắn của mẹ cô với vẻ thích thú.
Bên trong nhà xe, Blue nhìn Riley từ từ nhét quyển sổ lưu niệm trở lại ba lô. “Em không biết anh ấy là bạn trai của chị,” nó nói. “Em cứ tưởng chị là người lau dọn hay ai đó.”
Blue thở dài. Ngay cả ở độ tuổi mười một, đứa trẻ này cũng biết mấy cô như Blue Bailey chẳng cùng đẳng cấp với mấy anh chàng như Dean Robillard.
“Anh ấy thích chị nhiều lắm đấy,” Riley nói với vẻ thèm muốn.
“Anh ấy chỉ buồn chán thôi.”
April thò đầu vào. “Ta để quên một thứ ngoài nhà nhỏ. Hai đứa có muốn cùng đi lấy không? Đi bộ ra đó thích lắm.”
Blue vẫn chưa tắm táp gì được, nhưng tách Riley ra khỏi Dean một lát dường như là ý kiến hay, và cô ngờ đó chính là mục đích của April. Hơn nữa, cô cũng muốn thấy cái nhà nhỏ đó. “Chắc rồi. Đám lập dị tụi cháu thích những cuộc phiêu lưu mới lắm.”
April nhướng mày. “Đám lập dị ư?”
“Đừng lo ạ,” Riley lễ phép đáp lại. “Bác quá đẹp để làm kẻ lập dị.”
“Dừng tại đó đi,” Blue nói. “Chúng ta không thể có thành kiến với người khác chỉ vì họ xinh đẹp. Là kẻ lập dị hay không là do đầu óc. Bác April giàu trí tưởng tượng lắm. Bác ấy cũng là một dạng lập dị.”
“Thật vinh dự quá,” April tỉnh khô. Và rồi bà trao cho Riley một nụ cười không tự nhiên lắm. “Cháu có muốn xem cái hồ bí mật của bác không?”
“Bác có một cái hồ bí mật á?”
“Bác sẽ chỉ cho cháu.”
Riley túm ba lô, đoạn cả hai người họ theo Apirl rời khỏi toa xe
Cô không tin được mình lại mơ về anh. Thì đúng, Dean chính xác là loại đàn ông khơi nguồn cho những giấc mơ táo bạo của phái nữ, nhưng không phải từ một kẻ thực tế như cô. Kể từ sáng hôm qua, cô đã quá để ý đến anh theo mọi chiều hướng sai lầm, và cô cần phải dẹp bỏ ngay chuyện đó.
Sàn gỗ trần của nhà xe lạnh ngắt dưới chân cô. Cô đã ngủ trong chiếc áo phông có dòng chữ BODY BY BEER và chiếc quần tập yoga nhuộm loang tím sẫm vốn chưa hề được nhìn thấy một lớp yoga nào nhưng lại siêu thoải mái. Xỏ chân vào đôi dép xỏ ngón, cô bước ra ngoài trời lạnh se se. Chỉ có bài hát chào bình minh của các chú chim là phá vỡ sự yên tĩnh - chẳng có tiếng thùng rác loảng xoảng, tiếng còi báo động hú vang, hay tiếng rít cảnh báo từ mấy cái xe tải đang lùi. Cô đi về phía nhà chính và lách vào từ cửa bên hông. Trong ánh sáng sớm mai, những cái tủ bếp màu trắng và đám tay cầm đỏ tươi phản chiếu lại trên mặt quầy đá mới.
Don’t sit under the apple tree...
Tối qua trước khi ra ngoài Dean đã lại phủ ni lông đen lên cửa nhà vệ sinh, cô bèn đi thẳng về phía nhà vệ sinh tầng trệt có một phần khuất bên dưới cầu thang. Giống như mọi thứ khác trong ngôi nhà, phòng này được thiết kế dành cho anh, với một cái bồn cao và trần nhà được nâng lên một phần để tương thích với chiều cao của anh. Blue tự hỏi không biết anh có nhận thấy mẹ anh đã tỉ mỉ làm mọi thứ cho anh thế nào không. Hay có thể bà chỉ làm như anh yêu cầu.
Trong lúc cà phê vẫn còn đang ủ trong bình, cô phát hiện ra mấy cái tô từ đống hộp đựng đồ dùng nhà bếp mới đang chờ được dỡ ra sau khi sơn xong nhà bếp. Đám đĩa sạch đặt trên mặt quầy mới tinh nhắc cô nhớ đến bữa ăn của cô cùng với April tối qua. Dean đã cáo lỗi, bảo là anh có việc phải làm. Blue cá là việc đó có liên quan đến mấy nàng tóc vàng, tóc hạt dẻ và tóc đỏ. Cô mở cửa tủ lạnh lấy sữa thì thấy anh đã khoét một mảng lớn trong phần tôm Creole còn thừa. Từ phần còn lại quá ít trên đĩa mà nói, hẳn là trò hoan lạc nọ đã kích động chứng thèm ăn trong anh.
Cô khoát nước trong bồn để rửa mấy cái đĩa dành cho bữa sáng. Đám tô trắng có những sọc đỏ quanh mép, còn đám cốc thì được sơn một chùm sơ ri đỏ tươi. Cô rót cà phê ra, thêm sữa, rồi lững thững bước ra khỏi nhà. Khi đi đến phòng ăn, cô dừng lại ở ngưỡng cửa. Tối qua April đã bảo cô là bà đang tính thuê người vẽ vài bức tranh phong cảnh trên tường phòng này và hỏi Blue có làm công việc kiểu đó không. Blue bảo không, điều đó không hoàn toàn đúng. Cô đã vẽ khá nhiều tranh tường - vật nuôi trên tường sân chơi, logo kinh doanh ở các văn phòng, thơ Kinh Thánh theo từng sự kiện trên tường nhà bếp - nhưng cô không vẽ phong cảnh. Các giáo sư đại học đã gây cho cô quá nhiều đau đớn về những bức tranh cô vẽ cho các lớp học của mình, và cô ghét bất kỳ điều gì khiến mình cảm thấy kém cỏi.
Cô đi ra cửa trước, nhấm nháp cà phê và thong thả bước về phía bậc thềm để thưởng thức sương mù xoáy tít trong các chỗ trũng. Khi quay sang nhìn một đàn chim đậu trên nóc nhà kho, cô giật mình làm cà phê đổ ra cổ tay. Một đứa trẻ đang cuộn người ở góc thềm ngủ say sưa.
Con bé trông xấp xỉ mười ba tuổi, nhưng vẫn chưa mất đi vẻ mũm mĩm trẻ con nên có thể là nhỏ tuổi hơn. Nó mặc cái áo khoác hồng bẩn thỉu có logo hãng Juicy và quần nhung kẻ màu tím đầy bùn có vết rách hình chữ V ở đầu gối. Blue đưa cổ tay lên miệng liếm chỗ cà phê đổ ra. Mái tóc nâu xoăn tít, bù xù của đứa trẻ xõa xượi trên một bên má đầy đặn, lem luốc. Nó ngủ ở tư thế kỳ cục, lưng tì vào cái ba lô xanh sẫm mà nó đã đẩy vào góc thềm. Con bé có làn da màu ô liu săn chắc, hàng lông mày rậm đen sì và cái mũi thẳng mà cô không thường thấy. Bộ móng tay sơn màu xanh bóng loáng bị cắn trụi lủi. Nhưng dù bẩn thỉu, quần áo của con bé trông rất đắt tiền, cả đôi giày thể thao cũng vậy. Đứa trẻ này phủ lên mình dòng chữ THÀNH PHỐ LỚN, nghĩa là thêm một người lang thang nữa đã xuất hiện ở trang trại nhà Dean.
Blue đặt tách cà phê xuống và bước đến cạnh đứa trẻ. Cúi người xuống, cô nhẹ nhàng chạm vào cánh tay nó. “Này nhóc,” cô khẽ gọi.
Con bé nhảy dựng lên, mắt mở choàng ra. Đôi mắt nâu ấm áp màu đường caramen.
“Không sao đâu,” Blue nói, cố xoa dịu nỗi hoảng hốt mà cô thấy ở đứa bé. “Chào em.”
Đứa trẻ cố sức ngồi dậy, chất giọng ngái ngủ lào khào làm âm điệu miền Nam nhẹ nhàng trầm hơn. “Em... em không làm hư hại cái gì hết.”
“Cũng chẳng làm hư hại được nhiều thứ ở đây đâu.”
Con bé cố gạt tóc ra khỏi mắt. “Lẽ ra em không... nên ngủ quên.”
“Em đã không chọn được cái giường êm ái cho lắm.” Con bé trông khá nhút nhát, Blue chưa thể cật vấn nó bây giờ. “Em có muốn ăn gì đó không?”
Răng cửa trên của con bé cắm xuống môi dưới. Hàm răng thật thẳng, nhưng vẫn hơi to so với mặt của nó. “Có chị ạ. Nếu được.”
“Chị cứ hy vọng có người xuất hiện để bầu bạn cùng. Chị là Blue.”
Đứa trẻ loạng choạng đứng dậy nhặt ba lô. “Em là Riley. Chị là người giúp việc à?”
Rõ ràng con bé này đến từ tầng lớp thượng lưu. “Giúp đỡ hay cản trở,” Blue trả lời. “Điều đó còn tùy thuộc vào tâm trạng của chị.”
Riley còn quá nhỏ để có thể nhận thức được sự láu cá của người lớn. “Có... ai ở đây không?”
“Có chị.” Blue mở cửa trước và ra hiệu cho Riley bước vào.
Vào đến nhà, Riley liền nhìn quanh. Giọng nó run run thất vọng. “Nhà vẫn chưa làm xong. Chẳng có đồ đạc gì cả.”
“Một chút thôi. Gian bếp gần xong rồi.”
“Thế... giờ chẳng có ai sống ở đây à?”
Blue quyết định lẳng tránh câu hỏi cho đến khi cô tìm hiểu ra đứa trẻ này có âm mưu gì. “Chị đói quá. Em thì sao? Em thích ăn trứng hay ngũ cốc?”
“Ngũ cốc ạ.” Riley lệt xệt lê gót theo cô qua hành lang đến nhà bếp.
“Nhà vệ sinh ngay ở kia. Nó vẫn chưa có cửa, nhưng phải một lúc nữa thợ sơn mới đến, nên nếu em muốn rửa ráy thì chẳng ai làm phiền em đâu.”
Đứa trẻ nhìn quanh nhà, liếc về phía phòng ăn rồi đến cầu thang, đoạn nó cùng cái ba lô hướng thẳng về phía nhà vệ sinh.
Blue đã để số thực phẩm bảo quản trong bao cho đến khi đám thợ sơn xong việc. Cô vào kho thực phẩm lục ra mấy hộp ngũ cốc. Đến lúc Riley quay lại, kéo theo ba lô và cái áo khoác phía sau, Blue đã dọn xong mọi thứ ra bàn, gồm cả một bình con bò nhỏ chứa đầy sữa. “Chọn đồ của em đi.”
Riley đổ ngũ cốc và ba thìa đường vào tô cho mình. Con bé đã rửa mặt và tay, vài lọn tóc xoăn dính bết vào trán nó. Cái quần nhung kẻ màu tím quá chật, áo phông trắng có chữ FOXY[1] màu tía lấp lánh cắt ngang cũng vậy. Blue không thể nghĩ ra từ nào ít phù hợp hơn để miêu tả đứa trẻ nghiêm nghị này.
[1] Foxy: láu cá, xảo quyệt.
Cô chiên một quả trứng cho mình, làm một miếng bánh mì và mang đĩa ra bàn. Cô chờ đến khi đứa trẻ đã giải quyết phần đói khát tồi tệ nhất rồi mới bắt đầu thăm dò. “Chị ba mươi tuổi. Còn em?”
“Mười một.”
“Thế là hơi nhỏ để có thể sống một mình.”
Riley đặt thìa xuống. “Em đang tìm... một người. Đại loại là người thân. Không... không phải anh trai hay gì đâu,” con bé nói thật nhanh. “Chỉ... có lẽ giống như anh họ. Em... em tưởng có thể anh ấy ở đây.”
Ngay lúc đó cửa sau mở ra, vòng tay kêu leng keng, và April bước vào. “Chúng ta có khách đấy,” Blue nói. “Xem sáng nay cháu tìm thấy ai đang ngủ trên thềm này. Đây là bạn cháu, Riley.”
April ngẩng đầu lên, một cái vòng đeo tai lớn bằng bạc lộ ra qua mái tóc. “Trên thềm á?”
Blue bỏ quên miếng bánh mì. “Con bé đang cố tìm một người họ hàng.”
“Hội thợ mộc sẽ đến sớm thôi.” April mỉm cười với Riley. “Hay họ hàng của cháu là thợ sơn?”
“Cháu... họ hàng của cháu không làm việc ở đây,” Riley lẩm bẩm. “Anh ấy... lẽ ra anh ấy sống ở đây.”
Đầu gối Blue va vào chân bàn. Nụ cười của April nhạt đi. “Sống ở đây?”
Đứa bé gật đầu.
“Riley à?” Những ngón tay của April siết lại quanh mép quầy bếp. “Cho ta biết họ của cháu.”
Riley cúi gằm đầu trên tô ngũ cốc. “Cháu không muốn nói với bác.”
Da April thoắt tái nhợt. “Cháu là con của Jack, đúng không? Con của Jack và Marli?”
Blue suýt chết nghẹn. Nghi ngờ mối liên hệ giữa Dean và Jack Patriot là một chuyện, nhưng khi điều đó được khẳng định lại là chuyện khác. Riley là con gái của Jack Patriot, và bất chấp nỗ lực vụng về của con bé nhằm che giấu điều đó, người họ hàng mà nó đang tìm chỉ có thể là Dean.
Riley giật một lọn tóc, kéo nó qua mặt trong lúc nhìn chòng chọc vào tô ngũ cốc. “Bác biết cháu à?”
“Ta... Phải,” April nói. “Làm sao cháu đến được đây? Cháu sống ở Nashville cơ mà.”
“Đại loại là cháu đi nhờ ô tô. Với một người bạn của mẹ cháu. Cô ấy ba mươi tuổi.”
April không tin vào lời nói dối trắng trợn của nó. “Ta rất tiếc về chuyện của mẹ cháu. Bố cháu có biết cháu...” Vẻ mặt April trở nên khắc nghiệt. “Dĩ nhiên ông ta không biết. Ông ta không hề biết gì, đúng không?”
“Hầu hết thời gian thì không. Nhưng bố rất tốt.”
“Tốt à...” April xoa trán. “Ai là người phải chăm sóc cháu?”
“Cháu có một aupair.”
April với cuốn sổ tối qua bà đã đặt trên mắt quầy. “Đưa ta số điện thoại của cô ấy để ta gọi điện.”
“Chắc chị ấy chưa dậy đâu.”
April nhìn thẳng vào con bé. “Ta chắc chắn nó sẽ không phiền khi bị ta đánh thức.”
Riley quay đi. “Bác có thể cho cháu biết... Có người nào... Liệu có khi nào... anh họ của cháu sống ở đây không? Vì chuyện tìm anh ấy đối với cháu rất quan trọng.”
“Vì sao?” Giọng April rít lại. “Vì sao cháu cần phải tìm người đó?”
“Bởi vì...” Riley nuốt khan. “Bởi vì cháu cần cho anh ấy biết về cháu.”
April run rẩy hít vào. Bà nhìn trân trân vào quyển sổ. “Chuyện này sẽ không diễn ra như cháu muốn được đâu.”
Riley nhìn bà chòng chọc. “Bác biết anh ấy ở đâu, đúng không?”
“Không. Không, ta không biết,” April vội nói. Bà nhìn Blue, lúc này vẫn đang cố tiếp nhận những gì vừa nghe thấy. Dean chẳng giống Jack Patriot chút nào, nhưng Riley thì có. Họ cùng có làn da màu ô liu, mái tóc nâu vàng và sống mũi thẳng. Đôi mắt như đường caramen viền săm đó đã nhìn cô chòng chọc từ vô số bìa album rồi.
“Trong khi Riley và cô nói chuyện,” April nói với Blue, “Cháu có thể lo liệu việc ở tầng trên được không?”
Blue nhận ra ngay thông điệp. Cô phải giữ Dean tránh xa nơi này. Khi còn nhỏ, cô đã cảm thấy nỗi đau vì không được cho biết những bí mật, và cô không cho rằng việc ngăn trẻ con biết sự thật là đúng. Cô đẩy ghế ra khỏi bàn, nhưng trước khi cô kịp đứng lên thì tiếng bước chân vững chắc đã đến gần trong hành lang.
April nắm tay Riley. “Chúng ta ra ngoài nói chuyện.”
Đã quá muộn.
“Tôi ngửi thấy mùi cà phê.” Dean bước vào, mới tắm xong và chưa cạo râu, một mẫu quảng cáo trên tạp chí GQ rất phong cách nhưng cũng rất bình dị trong chiếc quần lửng ngắn màu xanh, áo phông lưới màu vàng nhạt in logo của Nike và đôi giày thể thao công nghệ cao màu xanh cốm có dáng thuôn như dáng xe đua. Nhìn thấy Riley, anh mỉm cười. “Chào.”
Riley ngồi hóa đá, trân trân nhìn anh. April ấn một tay lên eo, như thể bà đang đau bụng. Miệng Riley khẽ há ra. Cuối cùng, con bé cũng cất lời được. “Em là Riley.” Giọng nó lạo xạo như tiếng xé giấy.
“Chào Riley. Anh là Dean.”
“Em biết,” nó nói. “Em... em có một quyển ảnh lưu niệm.”
“Thật à? Ảnh lưu niệm kiểu gì?”
“V... về anh.”
“Không đùa chứ?” Anh hướng về phía bình cà phê. “Vậy em hâm mộ bóng bầu dục à.”
“Đại loại em là...” Con bé liếm môi khô khốc. “Đại loại thì em... có lẽ là em họ của anh hay gì đó.”
Đầu Dean ngẩng lên. “Anh làm gì có...”
“Riley là con gái của Marli Moffatt,” giọng April lạnh băng.
Riley tập trung hoàn toàn vào anh. “Jack Patriot... đại loại cũng là bố em.”
Dean nhìn con bé trừng trừng.
Mặt Riley đỏ lên vì kích động. “Em không định nói thế!” nó kêu lên. “Em chưa bao giờ nói với ai về anh. Em thề đấy.”
Dean đứng như hóa đá. April dường như không thể cựa quậy. Đôi mắt đau khổ của Riley giàn giụa nước mắt. Blue không chịu được khi phải chứng kiến nỗi đau nhường ấy, cô bèn đứng dậy. “Dean vừa mới lăn ra khỏi giường thôi, Riley. Hãy cho anh ấy vài phút để anh ấy tỉnh hẳn đã.”
Ánh mắt Dean rời sang phía mẹ anh. “Con bé đang làm gì ở đây?”
April lùi lại tựa vào bếp lò. “Cố tìm con, mẹ đoán vậy.”
Blue có thể thấy cuộc gặp mặt này không diễn ra theo cách mà Riley đã tưởng tượng. Nước mắt ngập hai hàng mi đứa bé. “Em xin lỗi. Em sẽ không bao giờ nói gì nữa.”
Dean là người lớn, và anh cần phải có trách nhiệm, nhưng anh cứ đứng im lặng và cứng đơ. Blue vòng qua bàn đến chỗ Riley. “Có người vẫn chưa được uống cà phê, và điều đó khiến anh ta thành một chú gấu cáu bẳn. Trong khi chờ Dean tỉnh đậy, chị sẽ chỉ cho em nơi chị ngủ tối qua. Em sẽ không tin được đâu.”
Khi Blue mười một, cô hẳn sẽ thách thức bất kỳ ai cố ngăn cản mình, nhưng Riley quen với việc mù quáng vâng lời hơn. Con bé cúi gằm mặt miễn cưỡng nhặt ba lô lên. Đứa trẻ này là một nỗi đau biết đi, và trái tim Blue thắt lại vì thương cảm. Cô choàng một tay quanh vai Riley dẫn nó về phía cửa bên hông. “Trước hết, em phải cho chị biết em biết gì về gipsy đã.”
“Em chẳng biết gì,” Riley lầm bầm.
“May làm sao, chị thì có biết.”
Dean chờ cánh cửa đóng lại. Trong vòng chưa đến hai mươi tư giờ, hai người đã đối chất với anh về cái bí mật mà anh đã có thể giấu kín suốt bao nhiêu năm qua. Anh quay sang April. “Chuyện quái gì đang xảy ra thế? Bà có biết gì không?”
“Dĩ nhiên mẹ không biết,” April đáp trả. “Blue tìm thấy con bé đang ngủ gục trên thềm. Hẳn là nó đã bỏ đi khỏi nhà. Rõ ràng chỉ có mỗi một đứa aupair trông nom nó.”
“Bà đang bảo tôi là cái gã khốn nạn ích kỷ đó để con bé có một mình chưa đến hai tuần sau khi mẹ nó qua đời đấy à?”
“Làm sao mẹ biết được? Ba mươi năm rồi mẹ có nói chuyện trực tiếp với ông ta đâu.”
“Mẹ kiếp, không thể tin được.” Anh xỉa ngón tay về phía bà. “Bà tìm ông ta ngay lập tức và bảo ông ta cử một tên đầy tớ đến đây ngay trong sáng nay để đón con bé.” April không thích bị sai bảo, và quai hàm bà siết lại. Quá tệ. Anh quay về phía cửa. “Tôi sẽ nói chuyện với con bé.”
“Đừng.” Vẻ dữ dội của bà khiến anh dừng lại. “Con đã thấy nó nhìn con thế nào rồi đấy. Thật dễ dàng biết là nó muốn gì. Tránh xa ra đi, Dean. Để nó nuôi hy vọng thì nhẫn tâm quá. Blue và mẹ sẽ xử lý chuyện này. Đừng làm bất kỳ điều gì khiến nó gắn bó nếu con không định tìm hiểu rõ vấn đề.”
Anh không giấu được vẻ cay đắng. “Trường nuôi dạy trẻ April Robillard. Sao tôi có thể quên được nhỉ.”
Mẹ anh có thể trở thành kể cứng đầu thực sự khi muốn, và bà hất cằm lên. “Hóa ra con giờ cũng ổn đấy chứ.”
Anh ném cho bà ánh mắt ghê tởm rồi ra ngoài theo cửa bên hông. Nhưng được nửa đường băng qua sân thì anh đi chậm lại. Mẹ anh nói đúng. Đôi mắt cầu xin của Riley cho biết con bé muốn có từ anh mọi thứ mà nó không thể có được từ bố nó. Sự kiện Jack bỏ rơi đứa trẻ sớm như vậy ngay sau đám tang của mẹ nó đã đánh vần tương lai của con bé với những ký tự in hoa - một ngôi trường nội trú đắt tiền và những kỳ nghỉ cùng với hàng đàn những bảo mẫu ăn diện.
Con bé vẫn còn khá hơn anh. Các kỳ nghỉ của anh đã diễn ra trong những căn villa hoa lệ, những khách sạn tồi tàn, hay những căn hộ xơ xác, phụ thuộc vào nơi mà April sẽ ở với đám đàn ông và những cơn nghiện của bà. Trong suốt thời gian đó, anh được mời chào mọi thứ từ cần sa, bia rượu đến gái điếm và dần dần đã chấp nhận tất cả. Công bằng mà nói, April chẳng biết hầu hết những chuyện đó, nhưng lẽ ra bà phải biết. Lẽ ra bà phải biết rất nhiều thứ.
Giờ Riley đã chạy theo anh, và trừ phi anh hoàn toàn hiểu sai vẻ khao khát trên mặt con bé, thì nó muốn anh trở thành gia đình của nó. Nhưng anh không thể làm thế. Anh đã giữ bí mật mối quan hệ giữa anh và Jack Patriot quá lâu rồi, giờ không thể nào thổi tung lên được. Phải, anh thấy tội nghiệp con bé, và anh hy vọng chết đi được là mọi việc sẽ ổn hơn, nhưng chỉ được đến thế mà thôi. Con bé là vấn đề của Jack, không phải của anh.
Anh chui vào trong nhà xe gipsy. Blue và Riley ngồi trên chiếc giường màu đen vẫn chưa dọn dẹp. Blue vẫn là thảm họa thời trang thường thấy, gương mặt nhọn trong bài hát ru trông kỳ quặc với cái quần nhuộm loang màu tím hẳn phải là ý tưởng trêu đùa của ai đó, và cái áo phông màu cam đủ to để chứa cả một rạp xiếc. Đứa trẻ ngước lên nhìn anh, một trời đau khổ khắc trên gương mặt tròn trịa nhỏ xíu của nó. Quần áo của nó quá chật, quá kiểu cách, và dòng chữ FOXY trên áo phông của nó trông thật ghê tởm trên bộ ngực mới nhú. Nó sẽ chẳng tin anh nếu anh cố thuyết phục là nó đã nhầm về mối quan hệ giữa anh và Jack.
Việc thấy quá nhiều khẩn nài tuyệt vọng trên gương mặt Riley lại gợi về quá nhiều ký ức tồi tệ, và giọng anh thốt lên cay nghiệt hơn dự tính. “Làm sao em biết về anh?”
Con bé liếc nhìn Blue, sợ sẽ tiết lộ nhiều hơn những gì nó đã trót tiết lộ. Blue vỗ lên đầu gối Riley. “Không sao đâu.”
Đứa trẻ chòng chọc lên đường sọc nổi màu oải hương trên chiếc quần nhung kẻ của nó. “Năm ngoái bạn trai của... của mẹ em kể với mẹ về anh. Đại loại là em nghe thấy họ nói chuyện. Ông ta từng làm việc cho bố. Nhưng ông ta bắt mẹ thề là không được nói với ai, kể cả dì Gayle.”
Anh chống tay lên sườn xe. “Anh ngạc nhiên vì mẹ em lại biết cái trang trại này đấy.”
“Em không nghĩ là mẹ biết. Em đã nghe bố nói chuyện điện thoại với ai đó về nơi này.”
Có vẻ như Riley nghe lỏm được nhiều thứ. Dean tự hỏi làm thế nào bố anh lại biết được chuyện trang trại. “Đưa anh số điện thoại của em,” anh nói, “Để anh gọi về nhà em bảo với họ là em không sao.”
“Chỉ có mỗi Ava thôi, và chị ấy không thích bị điện thoại đánh thức quá sớm. Chuyện đó khiến Peter nổi giận.” Riley cạy lớp sơn xanh trên móng tay cái. “Peter là bạn trai của Ava.”
“Vậy Ava là aupair của em hả?” anh nói. Giỏi lắm đấy, Jack.
Riley gật đầu. “Chị ấy khá tốt.”
“Và thạo việc đến không ngờ,” Blue dài giọng.
“Em không hề nói với ai về... anh biết đấy,” con bé nói vẻ thật thà. “Em biết đây là bí mật động trời. Và em nghĩ là mẹ cũng không nói với ai.”
Bí mật. Những năm đầu đời Dean đã tin rằng Bruce Springsteen là bố anh. April thậm chí còn sáng tác ra một câu chuyện phức tạp về chuyện Bruce viết bài “Candy’s Room” về bà. Nhưng đó hoàn toàn chỉ là ý nghĩ thèm muốn. Khi Dean lên mười ba và April đang phê thứ-chỉ-có-Chúa-mới-biết, bà đã buột ra sự thật, và cái thế giới vốn vẫn hỗn độn của anh đã lật ngược.
Cuối cùng, anh cũng tìm được tên luật sư của Jack trong đám đồ của April, cùng với một bộ sưu tập ảnh hồi April và Jack còn bên nhau và những bằng chứng về số tiền hỗ trợ mà Jack đã chi ra. Anh đã gọi tay luật sư nọ mà không cho April biết. Gã đó đã cố ngăn chặn anh, nhưng Dean hồi đó cũng đã ngang bướng như lúc này, và cuối cùng, Jack đã gọi cho anh. Đó là một cuộc nói chuyện ngắn ngủi, không thoải mái. Khi April phát hiện ra, bà đã say xỉn suốt một tuần liền.
Dean và Jack đã gặp nhau lần đầu tiên, một cuộc gặp bí mật, đầy gượng gạo trong một bungalow ở khách sạn Chateau Marmont, trong chuyến lưu diễn Mud & Mandness tại L.A. Jack đã cố cư xử như người bạn thân thiết của Dean, nhưng Dean không tin điều đó. Sau đó, Jack cứ đòi được gặp anh vài lần một năm, và mỗi lần đến thăm bí mật lại càng đau khổ hơn lần trước đó. Lúc lên mười sáu, Dean đã nổi dậy chống đối.
Jack để yên cho Dean đến lúc anh học năm thứ hai Đại học Nam California khi gương mặt anh bắt đầu xuất hiện trên tờ Sports Illustrated. Jack lại tiếp tục gọi điện, nhưng Dean đã cho ông ra rìa. Tuy vậy, thi thoảng Jack vẫn theo anh đến sân đấu, và đôi khi Dean vẫn nghe nói là người ta thấy Jack Patriot xuất hiện trong một trận đấu của Chicago Stars.
Anh quay về việc chính. “Anh cần số điện thoại, Riley.”
“Em... quên mất rồi.”
“Em quên mất số điện thoại của mình á?”
Con bé gật đầu hơi nhanh.
“Anh thấy em là một đứa trẻ trông khá thông minh.”
“Em thông minh mà... nhưng...” Con bé nuốt vào. “Em biết rất nhiều về bóng bầu dục. Năm ngoái, anh đã ném ba trăm bốn mươi sáu cú chuyền, chỉ bị cướp bóng có mười hai lần, và anh có mười bảy cú ném bị chặn.”
Dean thường yêu cầu mọi người không được dùng từ “bị chặn” khi có mặt anh, nhưng anh không muốn kích động con bé hơn mức cần thiết. “Anh ấn tượng đấy. Thật thú vị khi em có thể nhớ tất cả những thứ đó mà lại không nhớ được số điện thoại của mình.”
Con bé kéo ba lô lên đùi. “Em có thứ này cho anh. Em tự làm đấy.” Nó mở khóa lấy ra một cuốn sổ ảnh lưu niệm màu xanh. Ruột anh thắt lại khi anh nhìn xuống tờ bìa, được trang trí thủ công một cách cẩn thận. Sử dụng sơn phun và bút đánh dấu, con bé đã vẽ cái logo màu xanh-vàng của Stars và một số 10 đầy trau chuốt, là số áo của anh. Những trái tim có cánh và biểu ngữ có chữ “Boo” trang trí viền bìa. Anh mừng khi Blue lên tiếng vì anh không thể nghĩ ra cái quái gì mà nói lúc này.
“Đúng là một sản phẩm nghệ thuật khá đẹp.”
“Của Trinity còn đẹp hơn cơ,” Riley nói. “Nó gọn gàng lắm.”
“Gọn gàng không có ý nghĩa nhiều lắm trong nghệ thuật,” Blue nói.
“Mẹ em bảo gọn gàng là quan trọng. Đúng hơn là... mẹ đã nói thế.”
“Chị rất tiếc về chuyện của mẹ em,” Blue lặng lẽ nói. “Đây thực sự là khoảng thời gian khó khăn đối với em, đúng không?”
Riley xoa xoa một hình trái tim phồng trên bìa sổ lưu niệm. “Trinity là em họ của em. Nó cũng mười một tuổi và rất xinh xắn. Dì Gayle là mẹ nó.”
“Anh cá là Trinity sẽ lo lắng khi phát hiện ra em biến mất,” anh nói.
“Ồ, không đâu,” con bé đáp lại. “Trinity sẽ mừng lắm. Nó ghét em. Nó nghĩ em là đứa lập dị.”
“Thế có đúng không?” Blue hỏi.
Anh không hiểu sao lại phải xoáy vào chuyện đó, nhưng Blue phớt lờ ánh mắt coi thường của anh.
“Em đoán vậy,” Riley nói.
Blue tươi rói. “Chị cũng thế. Không phải thế thật ngầu sao? Chỉ có những kẻ lập dị mới thực sự thú vị, em không nghĩ vậy sao? Những kẻ khác thật buồn tẻ. Ví dụ như Trinity ấy. Con bé ấy có thể xinh xắn, nhưng nó buồn tẻ, đúng không?”
Riley chớp mắt. “Đúng đấy. Tất cả những gì nó muốn nói đến là lũ con trai.”
“Ọe.” Mặt Blue nhăn nhúm lại hơn mức cần thiết.
“Hoặc quần áo.”
“Ọe phát nữa.”
“Xem ai đang nói kìa,” anh lẩm bẩm.
Nhưng Riley đã quay hẳn sang phía Blue. “Hoặc nôn mửa để không bị béo.”
“Chắc em đang đùa với chị.” Blue nhăn nhăn sống mũi nhỏ và nhọn. “Làm sao nó biết chuyện đó.”
“Chuyện nôn ọe thực sự quan trọng với dì Gayle.”
“Hiểu rồi.” Blue liếc vội sang Dean. “Vậy chị đoán là dì Gayle cũng khá buồn tẻ.”
“Toàn tập luôn. Cứ thấy em là dì lại bảo ‘ôm nào ôm nào’ và bắt em hôn dì, nhưng đó chỉ là giả thôi. Dì cũng nghĩ em là đứa lập dị béo phì.” Riley giật giật gấu áo bông, cố kéo nó qua chỗ thịt lồi ra phía trên cạp quần.
“Chị thấy thương hại những người như thế,” Blue nói vẻ chân thành. “Những người cứ luôn phán xét. Mẹ chị, một người cực kỳ cực kỳ quyền lực, đã dạy chị rằng người ta không thể làm được những việc phi thường trên đời nếu cứ mất thời gian chỉ trích người khác vì họ không có vẻ ngoài hay cư xử theo cái cách mà mình nghĩ họ nên thế.”
“Mẹ chị còn... còn sống chứ?”
“Ừ. Mẹ chị đang ở Nam Mỹ giúp bảo vệ những cô gái khỏi bị đau đớn.” Vẻ mặt Blue trở nên u ám.
“Công việc đó nghe không có vẻ gì buồn tẻ,” Riley nói.
“Mẹ chị là một phụ nữ tuyệt vời.”
Một phụ nữ tuyệt vời, Dean nghĩ, người đã bỏ rơi đứa con duy nhất cho người lạ nuôi nấng. Nhưng ít ra Virginia Bailey cũng không có những đêm phê thuốc và lang chạ với lũ ngôi sao nhạc rock.
Blue đứng dậy bước vòng qua anh để lấy cái điện thoại di động của cô trên bàn. “Chị cần em giúp chị làm một chuyện, Riley. Chị có thể thấy là em không muốn cho anh Dean biết số điện thoại của em, và giữ bí mật riêng tư ở mức độ nào đó là hợp lý. Nhưng em phải gọi cho Ava bảo với chị ấy là em không sao.” Cô chìa điện thoại ra cho con bé.
Riley nhìn chòng chọc cái điện thoại nhưng không cầm.
“Làm đi nào.” Blue trông có thể giống một kẻ trốn thoát ra từ Vương quốc Ma thuật, nhưng cô cũng có thể là một sĩ quan huấn luyện nếu muốn, và Dean chẳng ngạc nhiên khi thấy Riley cầm điện thoại bấm số.
Blue ngồi cạnh con bé. Vài giây trôi qua. “Chào Ava, là em, Riley đây. Em không sao. Em đang ở với người lớn, thế nên chị không phải lo cho em đâu. Gửi lời chào đến Peter nhé.” Con bé tắt máy trả điện thoại lại cho Blue. Đôi mắt của nó, một biển khẩn nài không đáy, quay lại với Dean. “Anh có... thích xem sổ lưu niệm của em không?”
Anh không muốn làm tổn thương đến đứa trẻ mỏng manh này bằng cách nuôi dưỡng những hy vọng không thật. “Để sau cũng được,” anh trả lời cộc cằn. “Anh có việc phải làm.” Rồi anh nhìn sang Blue. “Ôm một cái trước khi anh đi nào, em yêu.”
Cô đứng dậy, kể từ khi anh gặp cô đây là lần đầu tiên cô thuận theo. Sự xuất hiện của Riley đã ngăn cản anh trong kế hoạch xử lý sự dối trá của cô về April, nhưng chỉ tạm thời thôi. Anh bước ra chính giữa nhà xe để không bị va đầu. Cô choàng tay quanh eo anh. Anh đang tính sờ mó một chút, nhưng hẳn đã đọc được tâm trí anh, cô véo anh thật mạnh qua lớp áo phông. “Oái.”
Cô vừa ngẩng lên mỉm cười với anh vừa lùi lại. “Nhớ em đấy, anh chàng đẹp trai.”
Anh trừng mắt nhìn cô, xoa xoa bên sườn rồi rời khỏi nhà xe.
Ngay khi đã ra khỏi tầm mắt, anh liền thò tay vào túi quần sau lôi cái điện thoại mà cô đã chuyển cho anh ra. Anh lướt qua các danh mục, gọi lại cuộc gọi cuối cùng, và nhận được tiếng trả lời tự động của một công ty bảo hiểm ở Chattanooga.
Đứa trẻ này không ngốc chút nào.
Nhân tiện có điện thoại của Blue trong tay, anh lướt qua lịch sử cuộc gọi cho đến khi tìm thấy ngày mà anh cần. Anh gọi vào hộp thư thoại của cô và nhập mật khẩu mà anh đã thấy cô dùng vài ngày trước. Cô không có thói quen xóa hộp thư thoại của mình, và anh lắng nghe lời nhắn của mẹ cô với vẻ thích thú.
Bên trong nhà xe, Blue nhìn Riley từ từ nhét quyển sổ lưu niệm trở lại ba lô. “Em không biết anh ấy là bạn trai của chị,” nó nói. “Em cứ tưởng chị là người lau dọn hay ai đó.”
Blue thở dài. Ngay cả ở độ tuổi mười một, đứa trẻ này cũng biết mấy cô như Blue Bailey chẳng cùng đẳng cấp với mấy anh chàng như Dean Robillard.
“Anh ấy thích chị nhiều lắm đấy,” Riley nói với vẻ thèm muốn.
“Anh ấy chỉ buồn chán thôi.”
April thò đầu vào. “Ta để quên một thứ ngoài nhà nhỏ. Hai đứa có muốn cùng đi lấy không? Đi bộ ra đó thích lắm.”
Blue vẫn chưa tắm táp gì được, nhưng tách Riley ra khỏi Dean một lát dường như là ý kiến hay, và cô ngờ đó chính là mục đích của April. Hơn nữa, cô cũng muốn thấy cái nhà nhỏ đó. “Chắc rồi. Đám lập dị tụi cháu thích những cuộc phiêu lưu mới lắm.”
April nhướng mày. “Đám lập dị ư?”
“Đừng lo ạ,” Riley lễ phép đáp lại. “Bác quá đẹp để làm kẻ lập dị.”
“Dừng tại đó đi,” Blue nói. “Chúng ta không thể có thành kiến với người khác chỉ vì họ xinh đẹp. Là kẻ lập dị hay không là do đầu óc. Bác April giàu trí tưởng tượng lắm. Bác ấy cũng là một dạng lập dị.”
“Thật vinh dự quá,” April tỉnh khô. Và rồi bà trao cho Riley một nụ cười không tự nhiên lắm. “Cháu có muốn xem cái hồ bí mật của bác không?”
“Bác có một cái hồ bí mật á?”
“Bác sẽ chỉ cho cháu.”
Riley túm ba lô, đoạn cả hai người họ theo Apirl rời khỏi toa xe