Chương : 4
Gabar chở Timoken và Zobayda đi đến một dãy núi ở vùng sa mạc phía bắc. Cả hai vẫn còn đang ngủ say, Gabar bắt đầu rống lên, rồi giậm chân. Hai chị em giật mình tỉnh giấc, họ dụi mắt và duỗi thẳng đôi chân tê cứng của mình.
“Tới phiên tôi phải nghỉ ngơi,” Gabar nói. Nó quỳ xuống làm cho cái yên trên lưng chao đảo dữ dội.
May mắn là Zobayda đã dùng một chiếc khăn choàng dài quấn quanh người mình và em trai, đầu còn lại thì buộc chặt vào cái yên, nếu không thì họ đã ngã nhào xuống đất. Để leo xuống đất thì cô phải tháo những cái nút thắt ra, nhưng những ngón tay của Zobayda đã cứng đơ vì lạnh, nên cô không thể tháo được.
“Giúp chị với, Timoken,” Zobayda nói, “nếu không thì chúng ta bị trói với con lạc đà này mãi mãi mất.”
Timoken đang mải nhìn ngắm bầu trời, cậu chưa bao giờ nhìn thấy nhiều sao như thế. Sương lạnh của buổi tối làm cho những hạt cát lấp lánh như nước đá. Rùng mình, Timoken giúp chị mình tháo cái nút thắt của khăn quàng, để cả hai cùng leo xuống khỏi lưng Gabar.
Gabar chợt nhớ ra gần đó có một hang động mà chủ của nó thường hay nghỉ chân. Đây rồi, nó ngay trên sườn núi, chỉ cách chỗ họ đứng vài bước chân. Bọn trẻ cùng trèo vào hang. Đã tránh được không khí giá rét, những cơn rùng mình của họ cũng từ từ lắng xuống. Zobayda lấy thức ăn mang theo ra, nhưng xung quanh tối om, nên cô thậm chí còn chẳng thể nhìn thấy tay mình. Mò mẫm trong hành lý, Zobayda tìm thấy một cây đèn cầy, nhưng chẳng tìm thấy lửa để đốt.
“Em có thế tạo ra mưa, vậy thì có lẽ em cũng có thể tạo ra lửa chứ.” Zobayda nói với em mình.
Timoken gập những ngón tay của mình lại. Tạo ra lửa có vẻ quá xa vời. “Tay của chị đã chạm vào chiếc vương miện và làm cho nó vừa với đầu của em,” cậu nói. “Bàn tay đó cũng đã cứu chúng ta khỏi con chim khổng lổ.”
“Phải, chị biết. Nhưng chị không nghĩ là...”
“Hãy thử xem.”
“Được thôi.” Zobayda cắm cây đèn cầy lên nền đất. Cô chụp tim đèn bằng hai bàn tay khum lại và bắt đầu thì thầm một mình. Hay là cô đang nói chuyện với cây đèn cầy? Mặc cho cô nói gì đi nữa, thì dây tim đèn phủ sáp vẫn không có thay đổi gì.
“Ngón tay của chị lạnh quá,” Zobayda nói.
“Đừng bỏ cuộc,” Timoken hối thúc.
Chị cậu nghiêng đầu. Một âm thanh du dương phát ra từ miệng cô, một bài hát khe khẽ. Một luồng sáng từ ngón tay cô bắt đầu lóe lên. “Ổ!” Cô bỏ tay ra, để lộ một ngọn lửa nhỏ đang cháy.
“Chị làm được rồi,” Timoken mừng rỡ reo lên.
Zobayda có vẻ ngạc nhiên về điều mình vừa làm được. Ngọn lửa cháy to dần lên, thắp sáng cả hang động. Cô nhìn chiếc nhẫn trên tay mình, nó đang tỏa sáng hơn bao giờ hết. Gương mặt tí hon trên chiếc nhẫn đang mỉm cười với cô, chắc chắn là như thế.
“Chiếc nhẫn đã giúp chúng ta đấy,” cô nói với Timoken, “không phải ngón tay của chị đâu.”
Ông chủ cũ của Gabar đã để sẵn một bó củi ở đó, sẵn sàng cho lần nghỉ chân tiếp theo của mình. Timoken nhặt lấy một ít củi, rồi nhen lửa bằng cây đèn cầy. Không khí trong hang ấm hẳn lên. Chúng ngồi bên nhau cạnh đống lửa và ăn thịt khô mà hoàng hậu đã gói theo. Lương thực của hai chị em bây giờ chỉ còn lại bánh hạt kê và đậu. Họ bắt đầu lo lắng vì không biết chỗ lương thực này đủ cho bao nhiêu ngày nữa.
Một bao thóc đã được chuẩn bị sẵn sau bó củi. Timoken đoán đó là dành cho con lạc đà. Cậu mang nó ra ngoài cho Gabar, nó đang nằm nghỉ ngơi ngoài sa mạc lạnh giá.
Gabar cảm ơn cậu và bắt đầu nhai ngon lành, trong khi đó, Timoken tháo cái yên và túi hành lý nặng trịch trên lung Gabar xuống.
“Khi trời sáng, ta sẽ làm mưa,” Timoken nói với Gabar, “và ngươi sẽ có nước để uống.”
Gabar khịt mũi: “Thật chứ?”
“Sáng mai ngươi sẽ thấy,” Timoken nói. “Chúc ngủ ngon, Gabar.”
Zobayda trải quần áo ra nền đất làm nệm. Cả hai cùng nằm xuống và đắp tấm tơ nhện lên người. Họ chìm vào giấc ngủ ngay sau đó.
Một tiếng sau, Timoken thức dậy. Đống lửa chỉ còn trơ lại những cây than hồng, ánh sáng mập mờ in bóng của chúng lên vách đá. Timoken nhìn chằm chằm vào những cái bóng, cậu có thể thấy chúng tạo thành những đường dài. “Đó là chữ hay là tranh vẽ?” Timoken tự hỏi.
Timoken ngồi dậy. Có những giọng nói phát ra từ những cái bóng. Cậu đứng dậy và tiến lại gần bức tường. Cậu chạm vào vách đá gồ ghề và cảm nhận được nhịp đập của nó, cứ như thể vách đá này đang sống.
“Ai đó?” Timoken thi thầm.
Hàng trăm giọng nói tràn về phía cậu. Cậu không thể hiểu được gì từ mớ âm thanh hỗn tạp này. Cậu liếc nhìn Zobayda, nghĩ rằng cô sẽ giật nảy người vì sợ hãi. Nhưng Zobayda vẫn đang ngủ say, như thể cô không nghe thầy bất cứ tiếng động nào.
Timoken bắt đầu nhận thấy sự khác biệt của các giọng nói. Cậu chỉ tập trung nghe một giọng nói và phớt lờ những âm thanh còn lại. Giọng nói đầu tiên kể về thành phố xinh đẹp mà ông ta đã sống cùng với vợ và mười đứa con; giọng nói thứ hai là tiếng rao ở chợ nơi bán trang sức bằng vàng bạc và trái cây từ nước ngoài, những tấm khăn trải bàn và màng che bằng da được bày bán; tiếng nói còn lại là của người thủy thủ đang đi trên biển và bị một sinh vật không lổ nuốt mất con tàu.
Timoken chợt hiểu ra rằng đây là những giọng nói của những người đã từng trú chân trong hang động này kể về cuộc đời của họ. Và bằng một cách nào đó mà giọng nói của những người khách này được truyền tới tai Timoken qua những hình thù trên vách đá. Cậu thích thú với ý nghĩ rằng mình có thể kể câu chuyện của bản thân cho những người khách tiếp theo trong hang đá này, thế rồi, cậu lấy con dao có cán bằng ngọc trai mà cha cậu đã tặng ra để khắc câu chuyện của mình lên vách đá.
Khi chưa bắt đầu kể câu chuyện của mình, thì Timoken nhận ra rằng có người nào đó đang theo dõi mình. Cậu cảm thấy những hình ảnh đang vẽ như đang xoay tròn và hướng về phía mình, sống động minh họa cho câu chuyện của cậu. Những nét vẽ của Timoken sẽ được lưu lại trên vách đá này đến cả trăm năm sau; chúng sẽ kể lại câu chuyện của cậu cho một ai đó mà có lẽ cậu sẽ không bao giờ biết mặt.
Bỗng nhiên, có một cậu bé xuất hiện ở vách đá, cậu khoảng mười ba hay mười bốn tuổi, da trắng bệch, trắng hơn cả Timoken, đôi mắt cậu màu nâu và rất lanh lợi. Mái tóc đen, dày và rối bời. Cậu nở một nụ cười rất tươi và Timoken cũng cười đáp lại.
Cậu bé đó mặc một bộ đồ rất lạ. Cái áo đỏ bó sát lấy người cậu và một cái quần màu xanh bám đầy bụi, làm bằng chất liệu cứng.
“Người đây rồi!” giọng nói của cậu bé thật lảnh lót làm cho Timoken phải lùi lại một bước. Timoken cảm thấy mình có thể hiểu được, mặc dù cậu bé kia đang nói một ngôn ngữ khác.
Sau một hồi ngần ngại, Timoken hỏi: “Cậu là ai?”
“Cái gì thế nhỉ? Có phải cậu ấy nói là ‘Charlee’? Một cái tên thật khó gọi.”
Timoken nhíu mày: “Cậu đang ở đâu?”
“Cháu đang ở đây mà,” cậu bé đó đáp. “Cháu không thể tin được điều này có thể xảy ra.”
“Thật ngạc nhiên,” Timoken đồng tình.
“Cháu đã thử bắt chuyện với người nhiều lần,” cậu bé tiếp tục nói, “nhưng bao giờ cũng có một người nào đó ngăn cháu lại. Cuối cùng thì ông ta cũng đi rồi.”
“Ai cơ?”
“Chắc chắn rằng người biết ông ấy. Nhưng có lẽ là người chưa gặp ông ta thôi. Cháu đoán rằng người chỉ khoảng mười, mười một tuổi.”
“Tôi mười một tuổi rồi,” Timoken nói. “Hãy nói cho tôi biết, ai là ‘người đó’?”
“Đó là cái bóng của một thầy phù thủy quyền lực. Hark...”
“Timoken, em đang nói chuyện với vách đá à,” Zobayda nói, dụi mắt mình. “Em đang bị mộng du phải không?”
Tiếng la của Zobayda cắt ngang lời cậu bé đó.
“Không!” Timoken đáp, mắt vẫn nhìn vào vách đá. Cậu bé đó đã biến mất. “Lẽ ra chị không nên cắt ngang em như thế.”
“Cái gì chứ?”
“Chị đã làm hỏng liên kết giữa chúng em.”
Zobayda ngáp dài: “Chị chẳng hiểu em đang nói gì.”
Timoken vẫn tiếp tục nhìn lên vách đá. Cậu cố gắng đọc từng nét vẽ, với hy vong cậu bé kia sẽ quay trở lại. Nhưng cậu bé đó đã biến mất. Cậu muốn kể cho Zobayda nghe về cậu bé kia và những giọng nói lạ, nhưng không biết phải mở lời như thế nào. Cậu không thể nào diễn tả được cảm giác của mình khi cậu nhìn thấy nụ cười của cậu bé ấy.
“Có chuyện gì vậy, Timoken?” Zobayda lẩm bẩm. “Có chuyện gì đang xảy ra với em sao?”
“Không có chuyện gì cả. Chỉ là em... Em không biết nữa. Em nghe thấy những giọng nói từ trong vách đá, cả trăm giọng nói. Và rồi, em nhìn thấy một cậu bé. Em nghĩ là cậu ta có mối liên hệ đặc biệt gì đó với em. Nghe có vẻ kỳ lạ, chắc chị không tin em phải không?”
“Chỉ có thể tin mọi thứ em nói, em trai của chị.” Zobayda ngái ngủ nói.
Vào sáng hôm sau, Timoken lại dùng tấm tơ nhện xoay tròn trên cát, mang cơn mưa đến trên sa mạc. Chiếc túi da dê lại được đổ đầy nước cho Gabar. Con lạc đà không hề tỏ ra ngạc nhiên về điều này. Nó uống hết sạch nước, ợ lên và đòi ăn sáng.
“Ta chắc chắn rằng ngươi chưa từng thấy ai làm mưa như thế,” Timoken nói với vẻ hơi phật ý.
“Cậu không phải là một người bình thường,” Garbar đáp, trong khi đang nhai nhóp nhép bữa sáng. “Tôi không mấy bất ngờ về việc cậu có thể làm mưa.” Con lạc đà đã thôi không thắc mắc với những tình huống như vậy nữa.
Timoken buộc cái yên nặng trịch lên lưng con lạc đà, nhưng trước khi cậu buộc hành lý của người lái buôn, Zobayda tò mò muốn xem có cái gì trong đó. Họ mở chiếc túi đầu tiên ra và thấy trái cây, thịt khô và thóc cho lạc đà. Chiếc túi thứ hai đựng một khúc vải lụa; còn chiếc túi nặng nhất - chiếc túi thứ ba thì được buộc rất chặt. Khi bọn trẻ mở được dây buộc bằng da thì bên trong lại xuất hiện một cái túi nữa, rồi họ lại tìm thấy một cái nữa, rồi một cái nữa, có bốn cái túi tất cả.
Những sợi dây da cứng làm sướt ngón tay họ, Zobayda gần như đã bỏ cuộc, nhưng Timoken thì ngược lại, cậu nóng lòng muốn biết bên trong chiếc túi có cái gì, cậu nghĩ đó hẳn là một vật quý giá nên mới được gói kỹ lưỡng như vậy. Cậu dùng con dao của mình cắt dứt sợi dây da của chiếc túi cuối cùng để mở ra. Một cái rương dài bằng ngà voi được chạm trổ tinh tế, nắp của nó được đóng kính bằng một cái khóa bằng vàng. Timoken cẩn thận mở khóa, nhấc nắp rương lên.
Zobayda sửng sốt trước ánh sáng tỏa ra từ trong chiếc rương. Timoken không thể tin vào mắt mình được nữa. Cái rương đầy ắp những trang sức quý giá: vòng vàng, dây chuyền, chuỗi hạt hồng ngọc và ngọc trai, nhẫn kim cương và ngọc lục bảo. Tất cả cùng nhau tạo nên một quầng sáng lấp lánh.
“Chủ của Gabar còn hơn cả một thương gia,” Timoken thì thầm, “ông ta hẳn phải là một hoàng tử.”
“Chúng ta cũng từng giàu có,” Zobayda thở dài.
Tại sao bọn viridee lại bỏ qua một kho báu như thế này chứ? Timoken tự hỏi. Rồi cậu hỏi con lạc đà.
“Chúng không cần châu báu của con người,” Gabar đáp.
“Nhưng chúng cần những thứ chúng ta có,” Timoken nói. “Chúng muốn có nó đến mức chúng đã tạo ra cả bão cát, chúng cũng đã giết chủ của ngươi vì đã từ chối giúp chúng bắt chúng ta.”
Zobayda lấy một nắm châu báu ra khỏi cái rương trước khi họ đóng nó lại. “Chúng ta sẽ đủ tiền mua thức ăn khi lương thực của chúng ta cạn kiệt,” cô nói.
“Chỉ khi nào chúng ta tìm được người bán hàng đáng mến,” Timoken nghĩ.
Khó khăn lắm họ mới có thể cho cái rương trở lại vào bốn cái túi.
Sau khi buộc mọi thứ chắc chắn, bọn trẻ leo lên lưng Gabar. Zobayda lại dùng cái khăn choàng buộc mình và Timoken vào cái yên. Timoken vung dây cương, và Gabar đứng dậy. Nó đã đi qua sa mạc rất nhiều lần rồi, nên nó nắm rõ đường đi trong lòng bàn tay. Timoken bảo nó đưa họ đến nơi có người sinh sống gần đây nhất.
“Và rồi cậu sẽ làm gì ở đó?” Gabar hỏi, vẻ ngạc nhiên.
Timoken không biết phải trả lời với con lạc đà như thế nào. “Rồi chúng ta sẽ làm gì khi chúng ta tìm thấy một ngôi làng hay một thành phố?” cậu hỏi chị mình.
Zobayda trả lời không chút do dự: “Nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể sinh sống và lập nghiệp ở đó.”
“Còn nếu chúng ta không thích nó?”
“Thì chúng ta sẽ lại tiếp tục lên đường,” Zobayda vui vẻ nói. “Một ngày nào đó, chúng ta sẽ tìm được quê hương thứ hai của mình.”
“Nhưng chúng ta vẫn sẽ không có cha và mẹ.”
Zobayda im lặng một lúc lâu, và rồi, cô nói rất khẽ: “Bây giờ chỉ còn lại chị và em, Timoken.”
“Còn có cả Gabar nữa,” Timoken nói.
“Làm sao chúng ta có thể xem con lạc đà là thành viên trong gia đình được chứ?”
“Ba người thì vẫn hơn hai mà,” Timoken nói.
Thế là họ lại tiếp tục cuộc hành trình dài, rất dài băng qua sa mạc. Thỉnh thoảng họ gặp một nhóm người du mục cưỡi trên những con dê. Những người lạ luôn nhìn họ bằng cặp mắt nghi ngờ. “Bọn trẻ này đang làm gì ở đây? Trên lưng một con lạc đà được trang trí sặc sỡ?” Nhưng rồi họ nhớ lại rằng sa mạc là một nơi đầy bí ẩn, những giọng nói ma, những đốm sáng nhảy múa, hay cả những ảo giác về cây cỏ và nước. Thế là những người du mục bắt đầu cười với bọn trẻ, tin rằng bọn trẻ là một dấu hiệu tốt được gửi tới từ những ngôi sao, để mang lại may mắn.
Một đêm nọ, khi bọn trẻ đang trú mình trong một khe đá, Timoken nhìn lên bầu trời và thấy một vầng sáng nhỏ xuất hiện trên màn trời tối như nhung. “Trăng non,” cậu reo lên. “Chị nhớ những gì mẹ mình nói không? Alixir.”
Zobayda đốt ngọn đèn lên và bắt đầu tìm kiếm trong đống hành lý. Khi tìm thấy nó, cô đổ một giọt ra tay mình, rồi liếm nó. Cô đổ một giọt nữa vào tay Timoken, và cậu cũng làm tương tự.
“Tới lượt Gabar,” Timoken nói.
Zobayda cau mày: “Tại sao chứ?”
“Ai mà biết được cuộc hành trình này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa? Và chúng ta cũng không muốn Gabar già đi khi chúng ta tìm thấy nhà mình.”
“Thứ chất lỏng này rất quý giá,” Zobayda cãi lại. “Chúng ta không nên phí phạm nó cho một con lạc đà.”
“Gabar cũng rất quý giá với chúng ta,” Timoken nài nỉ. Cầm lấy lọ nước và đi về phía Gabar.
Gabar đang mơ màng ngủ. Nó chỉ hí một bên mắt khi Timoken đi đến.
“Gabar, ta muốn cho ngươi uống một thứ, thè lưỡi ra,” Timoken nói.
Con lạc đà vẫn im lặng, không chịu mở miệng.
“Thấy chưa, nó đâu muốn uống,” Zobayda nói với theo.
Timoken phớt lờ cô: “Mở miệng ra nào, Gabar.”
Con lạc đà trở mình: “Tại sao phải uống?”
“Ta chỉ muốn rót một giọt nhỏ, nhỏ xíu thôi, một chấm nhỏ, nếu ngươi muốn...”
“Đó là cái gì?” Gabar hỏi.
“Thứ nước này có thể giúp ngươi không già đi,” Timoken nói.
“Vậy là tôi sẽ không bị già đi sao?” con lạc đà nói. “Có những con lạc đà trẻ, cũng có những con già. Tôi vẫn còn trẻ và tôi sẽ luôn được như thế à?”
Timoken gãi đầu. Có vẻ như từ ‘già đi’ không có trong vốn hiểu biết của con lạc đà. “Có lẽ ngươi nên há miệng ra, hãy vì ta nhé!” Timoken nói.
Không gầm gừ hay nói thêm lời nào, nó ngoan ngoãn há miệng.
Timoken nhìn hàm răng to tướng của nó nhô ra từ một cái hố đen, đó là miệng của con lạc đà. Cậu nghiêng bình và đổ một giọt nhỏ lên lưỡi của con lạc đà. Vì bên trong quá tối, tay của cậu lại không vững nên một giọt nữa bị tràn ra ngoài.
Ngày hôm sau, bước chân của Gabar có vẻ sung sức hơn. Nhưng hình như Alixir không có tác dụng nào khác lên nó.
Quanh cảnh xung quanh đang thay đổi từng chút, từng chút một. Hầu như không chú ý, họ đã vượt qua sa mạc khô cằn và tiến đến một vùng đất điểm thưa thớt những bãi cỏ và bụi cây.
Khi trời vừa chập choạng tối, Timoken nhìn thấy ở đằng xa có một khu nhà màu trắng. Cả hai đứa trẻ đều có chung một suy nghĩ: Có lẽ đây là nơi mà mình đang đi tìm. Chúng đã quá mệt mỏi bởi chuyến đi dài. Tâm trí chúng mụ mị vì cái nóng đọa đày của sa mạc vàng nắng, mắt nhức nhối vì phải điều tiết quá lâu dưới ánh mặt trời chói chang, cả người mỏi nhừ vì phải ngồi lắc lư cả ngày trên lưng lạc đà. Hai chị em mơ tới sự bình yên nơi vương quốc bí ẩn, mơ tới những làn gió mát từ cây quạt lông vũ và bàn tay dịu dàng của mẹ chúng.
Tràn đầy hy vọng, Timoken thúc con lạc đà đi nhanh về phía ngôi làng.
Gabar lo lắng nói: “Tôi không biết nơi này.”
“Chúng ta cũng vậy,” Timoken nói, “nhưng chúng ta rất muốn biết đây là một nơi như thế nào.”
Trông từ xa, nó có vẻ là một ngôi làng xinh đẹp. Nhung khi tới gần hơn, họ nhìn thấy bức tường bảo vệ bên ngoài ngôi làng đã bị vỡ vụn. Những hòn đá to nằm rải rác trên cát và gió đã tàn phá nơi này. Những cánh cửa xiêu vẹo, những mái nhà đổ nát và những đống cát trải dài trên những con đường trong làng.
Tuy nhiên, có một nhóm người đang tụ tập ở đó, và ở ngay trung tâm làng là một ngôi chợ đầy những quầy hàng. Dê, lừa và cả lạc đà thì sục sạo mớ rác rưởi trên đất. Nhiều con trong bầy thú vật đáng thương ấy ốm trơ xương, đến nỗi xương sườn của chúng ẩn hiện theo từng nhịp thở.
“Một nơi thật tồi tàn,” Gabar khịt khit mũi, “chúng ta đi thôi!”
Timoken nghĩ tới sa mạc khắc nghiệt. Cậu mong tìm được một mái nhà để ngủ và một gia đình tử tế để trò chuyện. Nhưng không hề có một ánh nhìn thân thiện nào dành cho họ. Chỉ toàn là những ánh mắt nghi ngờ và thù địch.
“Sẽ có một nơi khác gần đây thôi,” Zobayda thì thầm. “Một nơi tốt hơn ở đây.”
Timoken gật đầu: “Chúng ta đi nào!” cậu nói với Gabar.
Gabar không cần thêm một lời động viên nào. Với một cái hất đầu, nó quay vòng lại và đi ngược về phía con đường hướng ra sa mạc.
Một giọng nói lớn cất lên. Ngôn ngữ thật là lạ, rất trầm và sâu. Timoken không thể hiểu được ngôn ngữ này. Một giọng nói nữa lại cất lên, rồi một toán người chạy đến chặn ngay trước đầu con lạc đà. Timoken chụp lấy sợi dây cương; cậu bắt đầu nhận ra đây không phải con người. Chúng là những sinh vật màu xanh và đầy gân guốc.
“Viridee!” Gabar nói, giọng sợ hãi. Nó hất một tên đang vồ lấy yên cương ra và phóng đi. Sinh vật đó ngã xuống, rồi hét lên. Những tên đồng bọn kêu la giận dữ. Gabar phi nhanh về phía một con đường hẹp, theo sau là đám viridee. Một bức tường hiện ra ở phía cuối con đường.
“Chúng ta bị bắt rồi!” Zobayda la lên. “Chỉ còn một cách duy nhất để ra khỏi đây. Timoken, chúng ta phải bay lên thôi!”
“Em sẽ không đi nếu không có Gabar,” Timoken cương quyết nói.
Zobayda hét lên: “Lạc đà không thể bay được.”
“Ai mà biết được chứ?” Timoken nghiến răng nói.
“Nó quá nặng. Chúng ta không thể mang nó theo. Bọn chúng sẽ giết chúng ta đấy, Timoken. Chị có thể thấy điều đó trong mắt chúng.”
“Em sẽ không để con lạc đà của chúng ta ở một nơi đáng sợ thế này!” Timoken hét lên. “Nhưng em sẽ làm cho nó nhẹ bớt.” Cậu lấy con dao cán ngọc trai ra và cắt sợi dây giữ túi đựng châu báu. Cái túi rơi xuống đất, môt vài tên viridee bu lại xung quanh và xâu xé cái túi. Những tên còn lại vẫn chăm chăm đuổi theo bọn trẻ.
“Bức tường kìa!” Gabar kêu lên. “Không còn lối ra nữa.”
Timoken nghiêng cổ Gabar xuống. Bằng giọng nói thật quả quyết, cậu thì thầm vào tai Gabar: “Nhảy lên đi, Gabar, và ngươi sẽ bay lên được.”
“Lạc đà không bay được,” Gabar nói.
“Tin ta đi, ngươi có thể,” Timoken nói.
“Vậy thì tôi sẽ tin cậu!”
Timoken bất ngờ vì con lạc đà tin lời cậu. Cậu còn không tin được vào chính mình. Bây giờ, cậu phải làm cho lời nói của mình thành sự thật. Nhưng đó thật là một ý nghĩ ngu ngốc. Làm cách nào mà cậu có thể mang một con lạc đà bay lên không trung được chứ?
Bức tường chỉ còn cách vài mét. Timoken nhắm mắt lại. Một tay cậu cầm chặt dây cương trước ngực. Cậu có thể cảm thấy tím mình đang đập điên cuổng, người thì run lên. Timoken cúi người xuống, tay còn lại nắm lấy một cụm lông dày cộm của con lạc đà. Đồng thời, với điều ước tận sâu trong tâm trí, cậu thực hiện một cú nhảy để bay trên bầu trời.
Nhưng sức hút của trọng lực thật kinh khủng. Nó làm cậu không thở được. Nó kéo ngược cơ thể của cậu xuống và làm cho đầu cậu như muốn nổ tung. Lên! Lên nữa! Cậu cảm thấy lồng ngực mình như sắp bung ra, cả cơ thể như muốn vỡ ra thành từng mảnh. Ngay lúc cậu tưởng chừng mọi việc đã vượt quá sức mình, thì những bước chân của con lạc đà tạo ra được sự khỏi động phi thường. Cái yên không còn nhấp nhô nữa. Timoken mở mắt ra. Cậu không thấy gì khác ngoài bầu trời.
Gabar không phát ra âm thanh nào. Dường như nó còn không dám thở. Zobayda cũng quá bất ngờ nên không thốt thành lời. Chút sức mạnh cuối cùng của Timoken đã rời khỏi cậu. Cậu chỉ tập trung mải miết lướt đi trên bầu trời.
Mặt trời nóng bỏng đã hạ xuống dưới đường chân trời; bầu trời chỉ còn lại một màu xanh thẳm như nhung. Một luồng khí ấm áp lướt qua mặt Timoken. Một con chim bay ngang qua, kêu lên ngạc nhiên khi thấy một con lạc đà đang bay trên trời.
“Tới phiên tôi phải nghỉ ngơi,” Gabar nói. Nó quỳ xuống làm cho cái yên trên lưng chao đảo dữ dội.
May mắn là Zobayda đã dùng một chiếc khăn choàng dài quấn quanh người mình và em trai, đầu còn lại thì buộc chặt vào cái yên, nếu không thì họ đã ngã nhào xuống đất. Để leo xuống đất thì cô phải tháo những cái nút thắt ra, nhưng những ngón tay của Zobayda đã cứng đơ vì lạnh, nên cô không thể tháo được.
“Giúp chị với, Timoken,” Zobayda nói, “nếu không thì chúng ta bị trói với con lạc đà này mãi mãi mất.”
Timoken đang mải nhìn ngắm bầu trời, cậu chưa bao giờ nhìn thấy nhiều sao như thế. Sương lạnh của buổi tối làm cho những hạt cát lấp lánh như nước đá. Rùng mình, Timoken giúp chị mình tháo cái nút thắt của khăn quàng, để cả hai cùng leo xuống khỏi lưng Gabar.
Gabar chợt nhớ ra gần đó có một hang động mà chủ của nó thường hay nghỉ chân. Đây rồi, nó ngay trên sườn núi, chỉ cách chỗ họ đứng vài bước chân. Bọn trẻ cùng trèo vào hang. Đã tránh được không khí giá rét, những cơn rùng mình của họ cũng từ từ lắng xuống. Zobayda lấy thức ăn mang theo ra, nhưng xung quanh tối om, nên cô thậm chí còn chẳng thể nhìn thấy tay mình. Mò mẫm trong hành lý, Zobayda tìm thấy một cây đèn cầy, nhưng chẳng tìm thấy lửa để đốt.
“Em có thế tạo ra mưa, vậy thì có lẽ em cũng có thể tạo ra lửa chứ.” Zobayda nói với em mình.
Timoken gập những ngón tay của mình lại. Tạo ra lửa có vẻ quá xa vời. “Tay của chị đã chạm vào chiếc vương miện và làm cho nó vừa với đầu của em,” cậu nói. “Bàn tay đó cũng đã cứu chúng ta khỏi con chim khổng lổ.”
“Phải, chị biết. Nhưng chị không nghĩ là...”
“Hãy thử xem.”
“Được thôi.” Zobayda cắm cây đèn cầy lên nền đất. Cô chụp tim đèn bằng hai bàn tay khum lại và bắt đầu thì thầm một mình. Hay là cô đang nói chuyện với cây đèn cầy? Mặc cho cô nói gì đi nữa, thì dây tim đèn phủ sáp vẫn không có thay đổi gì.
“Ngón tay của chị lạnh quá,” Zobayda nói.
“Đừng bỏ cuộc,” Timoken hối thúc.
Chị cậu nghiêng đầu. Một âm thanh du dương phát ra từ miệng cô, một bài hát khe khẽ. Một luồng sáng từ ngón tay cô bắt đầu lóe lên. “Ổ!” Cô bỏ tay ra, để lộ một ngọn lửa nhỏ đang cháy.
“Chị làm được rồi,” Timoken mừng rỡ reo lên.
Zobayda có vẻ ngạc nhiên về điều mình vừa làm được. Ngọn lửa cháy to dần lên, thắp sáng cả hang động. Cô nhìn chiếc nhẫn trên tay mình, nó đang tỏa sáng hơn bao giờ hết. Gương mặt tí hon trên chiếc nhẫn đang mỉm cười với cô, chắc chắn là như thế.
“Chiếc nhẫn đã giúp chúng ta đấy,” cô nói với Timoken, “không phải ngón tay của chị đâu.”
Ông chủ cũ của Gabar đã để sẵn một bó củi ở đó, sẵn sàng cho lần nghỉ chân tiếp theo của mình. Timoken nhặt lấy một ít củi, rồi nhen lửa bằng cây đèn cầy. Không khí trong hang ấm hẳn lên. Chúng ngồi bên nhau cạnh đống lửa và ăn thịt khô mà hoàng hậu đã gói theo. Lương thực của hai chị em bây giờ chỉ còn lại bánh hạt kê và đậu. Họ bắt đầu lo lắng vì không biết chỗ lương thực này đủ cho bao nhiêu ngày nữa.
Một bao thóc đã được chuẩn bị sẵn sau bó củi. Timoken đoán đó là dành cho con lạc đà. Cậu mang nó ra ngoài cho Gabar, nó đang nằm nghỉ ngơi ngoài sa mạc lạnh giá.
Gabar cảm ơn cậu và bắt đầu nhai ngon lành, trong khi đó, Timoken tháo cái yên và túi hành lý nặng trịch trên lung Gabar xuống.
“Khi trời sáng, ta sẽ làm mưa,” Timoken nói với Gabar, “và ngươi sẽ có nước để uống.”
Gabar khịt mũi: “Thật chứ?”
“Sáng mai ngươi sẽ thấy,” Timoken nói. “Chúc ngủ ngon, Gabar.”
Zobayda trải quần áo ra nền đất làm nệm. Cả hai cùng nằm xuống và đắp tấm tơ nhện lên người. Họ chìm vào giấc ngủ ngay sau đó.
Một tiếng sau, Timoken thức dậy. Đống lửa chỉ còn trơ lại những cây than hồng, ánh sáng mập mờ in bóng của chúng lên vách đá. Timoken nhìn chằm chằm vào những cái bóng, cậu có thể thấy chúng tạo thành những đường dài. “Đó là chữ hay là tranh vẽ?” Timoken tự hỏi.
Timoken ngồi dậy. Có những giọng nói phát ra từ những cái bóng. Cậu đứng dậy và tiến lại gần bức tường. Cậu chạm vào vách đá gồ ghề và cảm nhận được nhịp đập của nó, cứ như thể vách đá này đang sống.
“Ai đó?” Timoken thi thầm.
Hàng trăm giọng nói tràn về phía cậu. Cậu không thể hiểu được gì từ mớ âm thanh hỗn tạp này. Cậu liếc nhìn Zobayda, nghĩ rằng cô sẽ giật nảy người vì sợ hãi. Nhưng Zobayda vẫn đang ngủ say, như thể cô không nghe thầy bất cứ tiếng động nào.
Timoken bắt đầu nhận thấy sự khác biệt của các giọng nói. Cậu chỉ tập trung nghe một giọng nói và phớt lờ những âm thanh còn lại. Giọng nói đầu tiên kể về thành phố xinh đẹp mà ông ta đã sống cùng với vợ và mười đứa con; giọng nói thứ hai là tiếng rao ở chợ nơi bán trang sức bằng vàng bạc và trái cây từ nước ngoài, những tấm khăn trải bàn và màng che bằng da được bày bán; tiếng nói còn lại là của người thủy thủ đang đi trên biển và bị một sinh vật không lổ nuốt mất con tàu.
Timoken chợt hiểu ra rằng đây là những giọng nói của những người đã từng trú chân trong hang động này kể về cuộc đời của họ. Và bằng một cách nào đó mà giọng nói của những người khách này được truyền tới tai Timoken qua những hình thù trên vách đá. Cậu thích thú với ý nghĩ rằng mình có thể kể câu chuyện của bản thân cho những người khách tiếp theo trong hang đá này, thế rồi, cậu lấy con dao có cán bằng ngọc trai mà cha cậu đã tặng ra để khắc câu chuyện của mình lên vách đá.
Khi chưa bắt đầu kể câu chuyện của mình, thì Timoken nhận ra rằng có người nào đó đang theo dõi mình. Cậu cảm thấy những hình ảnh đang vẽ như đang xoay tròn và hướng về phía mình, sống động minh họa cho câu chuyện của cậu. Những nét vẽ của Timoken sẽ được lưu lại trên vách đá này đến cả trăm năm sau; chúng sẽ kể lại câu chuyện của cậu cho một ai đó mà có lẽ cậu sẽ không bao giờ biết mặt.
Bỗng nhiên, có một cậu bé xuất hiện ở vách đá, cậu khoảng mười ba hay mười bốn tuổi, da trắng bệch, trắng hơn cả Timoken, đôi mắt cậu màu nâu và rất lanh lợi. Mái tóc đen, dày và rối bời. Cậu nở một nụ cười rất tươi và Timoken cũng cười đáp lại.
Cậu bé đó mặc một bộ đồ rất lạ. Cái áo đỏ bó sát lấy người cậu và một cái quần màu xanh bám đầy bụi, làm bằng chất liệu cứng.
“Người đây rồi!” giọng nói của cậu bé thật lảnh lót làm cho Timoken phải lùi lại một bước. Timoken cảm thấy mình có thể hiểu được, mặc dù cậu bé kia đang nói một ngôn ngữ khác.
Sau một hồi ngần ngại, Timoken hỏi: “Cậu là ai?”
“Cái gì thế nhỉ? Có phải cậu ấy nói là ‘Charlee’? Một cái tên thật khó gọi.”
Timoken nhíu mày: “Cậu đang ở đâu?”
“Cháu đang ở đây mà,” cậu bé đó đáp. “Cháu không thể tin được điều này có thể xảy ra.”
“Thật ngạc nhiên,” Timoken đồng tình.
“Cháu đã thử bắt chuyện với người nhiều lần,” cậu bé tiếp tục nói, “nhưng bao giờ cũng có một người nào đó ngăn cháu lại. Cuối cùng thì ông ta cũng đi rồi.”
“Ai cơ?”
“Chắc chắn rằng người biết ông ấy. Nhưng có lẽ là người chưa gặp ông ta thôi. Cháu đoán rằng người chỉ khoảng mười, mười một tuổi.”
“Tôi mười một tuổi rồi,” Timoken nói. “Hãy nói cho tôi biết, ai là ‘người đó’?”
“Đó là cái bóng của một thầy phù thủy quyền lực. Hark...”
“Timoken, em đang nói chuyện với vách đá à,” Zobayda nói, dụi mắt mình. “Em đang bị mộng du phải không?”
Tiếng la của Zobayda cắt ngang lời cậu bé đó.
“Không!” Timoken đáp, mắt vẫn nhìn vào vách đá. Cậu bé đó đã biến mất. “Lẽ ra chị không nên cắt ngang em như thế.”
“Cái gì chứ?”
“Chị đã làm hỏng liên kết giữa chúng em.”
Zobayda ngáp dài: “Chị chẳng hiểu em đang nói gì.”
Timoken vẫn tiếp tục nhìn lên vách đá. Cậu cố gắng đọc từng nét vẽ, với hy vong cậu bé kia sẽ quay trở lại. Nhưng cậu bé đó đã biến mất. Cậu muốn kể cho Zobayda nghe về cậu bé kia và những giọng nói lạ, nhưng không biết phải mở lời như thế nào. Cậu không thể nào diễn tả được cảm giác của mình khi cậu nhìn thấy nụ cười của cậu bé ấy.
“Có chuyện gì vậy, Timoken?” Zobayda lẩm bẩm. “Có chuyện gì đang xảy ra với em sao?”
“Không có chuyện gì cả. Chỉ là em... Em không biết nữa. Em nghe thấy những giọng nói từ trong vách đá, cả trăm giọng nói. Và rồi, em nhìn thấy một cậu bé. Em nghĩ là cậu ta có mối liên hệ đặc biệt gì đó với em. Nghe có vẻ kỳ lạ, chắc chị không tin em phải không?”
“Chỉ có thể tin mọi thứ em nói, em trai của chị.” Zobayda ngái ngủ nói.
Vào sáng hôm sau, Timoken lại dùng tấm tơ nhện xoay tròn trên cát, mang cơn mưa đến trên sa mạc. Chiếc túi da dê lại được đổ đầy nước cho Gabar. Con lạc đà không hề tỏ ra ngạc nhiên về điều này. Nó uống hết sạch nước, ợ lên và đòi ăn sáng.
“Ta chắc chắn rằng ngươi chưa từng thấy ai làm mưa như thế,” Timoken nói với vẻ hơi phật ý.
“Cậu không phải là một người bình thường,” Garbar đáp, trong khi đang nhai nhóp nhép bữa sáng. “Tôi không mấy bất ngờ về việc cậu có thể làm mưa.” Con lạc đà đã thôi không thắc mắc với những tình huống như vậy nữa.
Timoken buộc cái yên nặng trịch lên lưng con lạc đà, nhưng trước khi cậu buộc hành lý của người lái buôn, Zobayda tò mò muốn xem có cái gì trong đó. Họ mở chiếc túi đầu tiên ra và thấy trái cây, thịt khô và thóc cho lạc đà. Chiếc túi thứ hai đựng một khúc vải lụa; còn chiếc túi nặng nhất - chiếc túi thứ ba thì được buộc rất chặt. Khi bọn trẻ mở được dây buộc bằng da thì bên trong lại xuất hiện một cái túi nữa, rồi họ lại tìm thấy một cái nữa, rồi một cái nữa, có bốn cái túi tất cả.
Những sợi dây da cứng làm sướt ngón tay họ, Zobayda gần như đã bỏ cuộc, nhưng Timoken thì ngược lại, cậu nóng lòng muốn biết bên trong chiếc túi có cái gì, cậu nghĩ đó hẳn là một vật quý giá nên mới được gói kỹ lưỡng như vậy. Cậu dùng con dao của mình cắt dứt sợi dây da của chiếc túi cuối cùng để mở ra. Một cái rương dài bằng ngà voi được chạm trổ tinh tế, nắp của nó được đóng kính bằng một cái khóa bằng vàng. Timoken cẩn thận mở khóa, nhấc nắp rương lên.
Zobayda sửng sốt trước ánh sáng tỏa ra từ trong chiếc rương. Timoken không thể tin vào mắt mình được nữa. Cái rương đầy ắp những trang sức quý giá: vòng vàng, dây chuyền, chuỗi hạt hồng ngọc và ngọc trai, nhẫn kim cương và ngọc lục bảo. Tất cả cùng nhau tạo nên một quầng sáng lấp lánh.
“Chủ của Gabar còn hơn cả một thương gia,” Timoken thì thầm, “ông ta hẳn phải là một hoàng tử.”
“Chúng ta cũng từng giàu có,” Zobayda thở dài.
Tại sao bọn viridee lại bỏ qua một kho báu như thế này chứ? Timoken tự hỏi. Rồi cậu hỏi con lạc đà.
“Chúng không cần châu báu của con người,” Gabar đáp.
“Nhưng chúng cần những thứ chúng ta có,” Timoken nói. “Chúng muốn có nó đến mức chúng đã tạo ra cả bão cát, chúng cũng đã giết chủ của ngươi vì đã từ chối giúp chúng bắt chúng ta.”
Zobayda lấy một nắm châu báu ra khỏi cái rương trước khi họ đóng nó lại. “Chúng ta sẽ đủ tiền mua thức ăn khi lương thực của chúng ta cạn kiệt,” cô nói.
“Chỉ khi nào chúng ta tìm được người bán hàng đáng mến,” Timoken nghĩ.
Khó khăn lắm họ mới có thể cho cái rương trở lại vào bốn cái túi.
Sau khi buộc mọi thứ chắc chắn, bọn trẻ leo lên lưng Gabar. Zobayda lại dùng cái khăn choàng buộc mình và Timoken vào cái yên. Timoken vung dây cương, và Gabar đứng dậy. Nó đã đi qua sa mạc rất nhiều lần rồi, nên nó nắm rõ đường đi trong lòng bàn tay. Timoken bảo nó đưa họ đến nơi có người sinh sống gần đây nhất.
“Và rồi cậu sẽ làm gì ở đó?” Gabar hỏi, vẻ ngạc nhiên.
Timoken không biết phải trả lời với con lạc đà như thế nào. “Rồi chúng ta sẽ làm gì khi chúng ta tìm thấy một ngôi làng hay một thành phố?” cậu hỏi chị mình.
Zobayda trả lời không chút do dự: “Nếu chúng ta muốn, chúng ta có thể sinh sống và lập nghiệp ở đó.”
“Còn nếu chúng ta không thích nó?”
“Thì chúng ta sẽ lại tiếp tục lên đường,” Zobayda vui vẻ nói. “Một ngày nào đó, chúng ta sẽ tìm được quê hương thứ hai của mình.”
“Nhưng chúng ta vẫn sẽ không có cha và mẹ.”
Zobayda im lặng một lúc lâu, và rồi, cô nói rất khẽ: “Bây giờ chỉ còn lại chị và em, Timoken.”
“Còn có cả Gabar nữa,” Timoken nói.
“Làm sao chúng ta có thể xem con lạc đà là thành viên trong gia đình được chứ?”
“Ba người thì vẫn hơn hai mà,” Timoken nói.
Thế là họ lại tiếp tục cuộc hành trình dài, rất dài băng qua sa mạc. Thỉnh thoảng họ gặp một nhóm người du mục cưỡi trên những con dê. Những người lạ luôn nhìn họ bằng cặp mắt nghi ngờ. “Bọn trẻ này đang làm gì ở đây? Trên lưng một con lạc đà được trang trí sặc sỡ?” Nhưng rồi họ nhớ lại rằng sa mạc là một nơi đầy bí ẩn, những giọng nói ma, những đốm sáng nhảy múa, hay cả những ảo giác về cây cỏ và nước. Thế là những người du mục bắt đầu cười với bọn trẻ, tin rằng bọn trẻ là một dấu hiệu tốt được gửi tới từ những ngôi sao, để mang lại may mắn.
Một đêm nọ, khi bọn trẻ đang trú mình trong một khe đá, Timoken nhìn lên bầu trời và thấy một vầng sáng nhỏ xuất hiện trên màn trời tối như nhung. “Trăng non,” cậu reo lên. “Chị nhớ những gì mẹ mình nói không? Alixir.”
Zobayda đốt ngọn đèn lên và bắt đầu tìm kiếm trong đống hành lý. Khi tìm thấy nó, cô đổ một giọt ra tay mình, rồi liếm nó. Cô đổ một giọt nữa vào tay Timoken, và cậu cũng làm tương tự.
“Tới lượt Gabar,” Timoken nói.
Zobayda cau mày: “Tại sao chứ?”
“Ai mà biết được cuộc hành trình này sẽ còn kéo dài bao lâu nữa? Và chúng ta cũng không muốn Gabar già đi khi chúng ta tìm thấy nhà mình.”
“Thứ chất lỏng này rất quý giá,” Zobayda cãi lại. “Chúng ta không nên phí phạm nó cho một con lạc đà.”
“Gabar cũng rất quý giá với chúng ta,” Timoken nài nỉ. Cầm lấy lọ nước và đi về phía Gabar.
Gabar đang mơ màng ngủ. Nó chỉ hí một bên mắt khi Timoken đi đến.
“Gabar, ta muốn cho ngươi uống một thứ, thè lưỡi ra,” Timoken nói.
Con lạc đà vẫn im lặng, không chịu mở miệng.
“Thấy chưa, nó đâu muốn uống,” Zobayda nói với theo.
Timoken phớt lờ cô: “Mở miệng ra nào, Gabar.”
Con lạc đà trở mình: “Tại sao phải uống?”
“Ta chỉ muốn rót một giọt nhỏ, nhỏ xíu thôi, một chấm nhỏ, nếu ngươi muốn...”
“Đó là cái gì?” Gabar hỏi.
“Thứ nước này có thể giúp ngươi không già đi,” Timoken nói.
“Vậy là tôi sẽ không bị già đi sao?” con lạc đà nói. “Có những con lạc đà trẻ, cũng có những con già. Tôi vẫn còn trẻ và tôi sẽ luôn được như thế à?”
Timoken gãi đầu. Có vẻ như từ ‘già đi’ không có trong vốn hiểu biết của con lạc đà. “Có lẽ ngươi nên há miệng ra, hãy vì ta nhé!” Timoken nói.
Không gầm gừ hay nói thêm lời nào, nó ngoan ngoãn há miệng.
Timoken nhìn hàm răng to tướng của nó nhô ra từ một cái hố đen, đó là miệng của con lạc đà. Cậu nghiêng bình và đổ một giọt nhỏ lên lưỡi của con lạc đà. Vì bên trong quá tối, tay của cậu lại không vững nên một giọt nữa bị tràn ra ngoài.
Ngày hôm sau, bước chân của Gabar có vẻ sung sức hơn. Nhưng hình như Alixir không có tác dụng nào khác lên nó.
Quanh cảnh xung quanh đang thay đổi từng chút, từng chút một. Hầu như không chú ý, họ đã vượt qua sa mạc khô cằn và tiến đến một vùng đất điểm thưa thớt những bãi cỏ và bụi cây.
Khi trời vừa chập choạng tối, Timoken nhìn thấy ở đằng xa có một khu nhà màu trắng. Cả hai đứa trẻ đều có chung một suy nghĩ: Có lẽ đây là nơi mà mình đang đi tìm. Chúng đã quá mệt mỏi bởi chuyến đi dài. Tâm trí chúng mụ mị vì cái nóng đọa đày của sa mạc vàng nắng, mắt nhức nhối vì phải điều tiết quá lâu dưới ánh mặt trời chói chang, cả người mỏi nhừ vì phải ngồi lắc lư cả ngày trên lưng lạc đà. Hai chị em mơ tới sự bình yên nơi vương quốc bí ẩn, mơ tới những làn gió mát từ cây quạt lông vũ và bàn tay dịu dàng của mẹ chúng.
Tràn đầy hy vọng, Timoken thúc con lạc đà đi nhanh về phía ngôi làng.
Gabar lo lắng nói: “Tôi không biết nơi này.”
“Chúng ta cũng vậy,” Timoken nói, “nhưng chúng ta rất muốn biết đây là một nơi như thế nào.”
Trông từ xa, nó có vẻ là một ngôi làng xinh đẹp. Nhung khi tới gần hơn, họ nhìn thấy bức tường bảo vệ bên ngoài ngôi làng đã bị vỡ vụn. Những hòn đá to nằm rải rác trên cát và gió đã tàn phá nơi này. Những cánh cửa xiêu vẹo, những mái nhà đổ nát và những đống cát trải dài trên những con đường trong làng.
Tuy nhiên, có một nhóm người đang tụ tập ở đó, và ở ngay trung tâm làng là một ngôi chợ đầy những quầy hàng. Dê, lừa và cả lạc đà thì sục sạo mớ rác rưởi trên đất. Nhiều con trong bầy thú vật đáng thương ấy ốm trơ xương, đến nỗi xương sườn của chúng ẩn hiện theo từng nhịp thở.
“Một nơi thật tồi tàn,” Gabar khịt khit mũi, “chúng ta đi thôi!”
Timoken nghĩ tới sa mạc khắc nghiệt. Cậu mong tìm được một mái nhà để ngủ và một gia đình tử tế để trò chuyện. Nhưng không hề có một ánh nhìn thân thiện nào dành cho họ. Chỉ toàn là những ánh mắt nghi ngờ và thù địch.
“Sẽ có một nơi khác gần đây thôi,” Zobayda thì thầm. “Một nơi tốt hơn ở đây.”
Timoken gật đầu: “Chúng ta đi nào!” cậu nói với Gabar.
Gabar không cần thêm một lời động viên nào. Với một cái hất đầu, nó quay vòng lại và đi ngược về phía con đường hướng ra sa mạc.
Một giọng nói lớn cất lên. Ngôn ngữ thật là lạ, rất trầm và sâu. Timoken không thể hiểu được ngôn ngữ này. Một giọng nói nữa lại cất lên, rồi một toán người chạy đến chặn ngay trước đầu con lạc đà. Timoken chụp lấy sợi dây cương; cậu bắt đầu nhận ra đây không phải con người. Chúng là những sinh vật màu xanh và đầy gân guốc.
“Viridee!” Gabar nói, giọng sợ hãi. Nó hất một tên đang vồ lấy yên cương ra và phóng đi. Sinh vật đó ngã xuống, rồi hét lên. Những tên đồng bọn kêu la giận dữ. Gabar phi nhanh về phía một con đường hẹp, theo sau là đám viridee. Một bức tường hiện ra ở phía cuối con đường.
“Chúng ta bị bắt rồi!” Zobayda la lên. “Chỉ còn một cách duy nhất để ra khỏi đây. Timoken, chúng ta phải bay lên thôi!”
“Em sẽ không đi nếu không có Gabar,” Timoken cương quyết nói.
Zobayda hét lên: “Lạc đà không thể bay được.”
“Ai mà biết được chứ?” Timoken nghiến răng nói.
“Nó quá nặng. Chúng ta không thể mang nó theo. Bọn chúng sẽ giết chúng ta đấy, Timoken. Chị có thể thấy điều đó trong mắt chúng.”
“Em sẽ không để con lạc đà của chúng ta ở một nơi đáng sợ thế này!” Timoken hét lên. “Nhưng em sẽ làm cho nó nhẹ bớt.” Cậu lấy con dao cán ngọc trai ra và cắt sợi dây giữ túi đựng châu báu. Cái túi rơi xuống đất, môt vài tên viridee bu lại xung quanh và xâu xé cái túi. Những tên còn lại vẫn chăm chăm đuổi theo bọn trẻ.
“Bức tường kìa!” Gabar kêu lên. “Không còn lối ra nữa.”
Timoken nghiêng cổ Gabar xuống. Bằng giọng nói thật quả quyết, cậu thì thầm vào tai Gabar: “Nhảy lên đi, Gabar, và ngươi sẽ bay lên được.”
“Lạc đà không bay được,” Gabar nói.
“Tin ta đi, ngươi có thể,” Timoken nói.
“Vậy thì tôi sẽ tin cậu!”
Timoken bất ngờ vì con lạc đà tin lời cậu. Cậu còn không tin được vào chính mình. Bây giờ, cậu phải làm cho lời nói của mình thành sự thật. Nhưng đó thật là một ý nghĩ ngu ngốc. Làm cách nào mà cậu có thể mang một con lạc đà bay lên không trung được chứ?
Bức tường chỉ còn cách vài mét. Timoken nhắm mắt lại. Một tay cậu cầm chặt dây cương trước ngực. Cậu có thể cảm thấy tím mình đang đập điên cuổng, người thì run lên. Timoken cúi người xuống, tay còn lại nắm lấy một cụm lông dày cộm của con lạc đà. Đồng thời, với điều ước tận sâu trong tâm trí, cậu thực hiện một cú nhảy để bay trên bầu trời.
Nhưng sức hút của trọng lực thật kinh khủng. Nó làm cậu không thở được. Nó kéo ngược cơ thể của cậu xuống và làm cho đầu cậu như muốn nổ tung. Lên! Lên nữa! Cậu cảm thấy lồng ngực mình như sắp bung ra, cả cơ thể như muốn vỡ ra thành từng mảnh. Ngay lúc cậu tưởng chừng mọi việc đã vượt quá sức mình, thì những bước chân của con lạc đà tạo ra được sự khỏi động phi thường. Cái yên không còn nhấp nhô nữa. Timoken mở mắt ra. Cậu không thấy gì khác ngoài bầu trời.
Gabar không phát ra âm thanh nào. Dường như nó còn không dám thở. Zobayda cũng quá bất ngờ nên không thốt thành lời. Chút sức mạnh cuối cùng của Timoken đã rời khỏi cậu. Cậu chỉ tập trung mải miết lướt đi trên bầu trời.
Mặt trời nóng bỏng đã hạ xuống dưới đường chân trời; bầu trời chỉ còn lại một màu xanh thẳm như nhung. Một luồng khí ấm áp lướt qua mặt Timoken. Một con chim bay ngang qua, kêu lên ngạc nhiên khi thấy một con lạc đà đang bay trên trời.